Tuesday, June 30, 2009

Giờ sinh và tính cách


Bạn sinh vào buổi sáng, trưa, chiều hoặc tối? Điều này tiềm ẩn ý nghĩa gì trong việc thể hiện cá tính của bạn?
Tham khảo những thông tin dưới đây bạn sẽ hiểu ra nhiều điều thú vị.
Từ 6h đến 10h
Bạn thuộc mẫu người nhiều tham vọng. Bạn là người sống có chí hướng, biết vạch ra cho bản thân những kế hoạch và mục tiêu rõ ràng. Luôn nhiệt tình trong công việc với mục đích muốn thành công trên mọi phương diện.
Tham vọng của bạn không chỉ dừng lại ở đó, bạn còn muốn trở thành một nhà lãnh đạo, một người đi tiên phong và sẵn sàng đảm nhiệm nhiều trọng trách. Khi tham dự vào những tổ chức chính trị hoặc xã hội, mọi quan điểm cũng như ý kiến của bạn luôn được mọi người xung quanh ủng hộ.
Tuy nhiên, do tham vọng của bạn đặt ra là rất cao nên bạn cần học cách tạo niềm vui, hạnh phúc cho mình qua việc biết sẵn lòng giúp đỡ mọi người. Điều này không chỉ giúp bạn giảm bớt nguồn năng lượng dư thừa của mình, mà còn giúp bạn quên đi những tham vọng khác.
Từ 10h đến 18h
Bạn thuộc mẫu người thích sống quên mình vì người khác. Với bạn, những mối liên hệ giữa người với người luôn chiếm vị trí quan trọng trong cuộc sống, vì bạn vốn rất thích kết bạn thích tạo nhiều mối quan hệ giao tiếp với người xung quanh. Trong quan hệ với người thân, bạn luôn mong muốn mang lại cho họ hạnh phúc, đảm bảo cho họ một đời sống vui vẻ, an lành. Do bản chất quên mình vì người khác, bạn luôn được họ tìm đến để nhờ giúp đỡ hoặc tìm sự sẻ chia, an ủi trong những lúc vui buồn.
Trong thâm tâm bạn, không có gì quý giá bằng những giờ phút bạn dành cho người thân bạn bè. Những cuộc chuyện trò qua điện thoại. Giao tiếp thân ái là động lực giúp bạn thêm nhiều niềm vui trong cuộc sống. Tuy nhiên, những việc làm này sẽ chiếm nhiều thời gian của bạn, làm bạn thêm mệt nhoài, vì thế bạn cần biết cách sắp xếp thời gian một cách hợp lý để không ảnh hướng nhiều đến công việc.
Từ 18h đến 24h
Bạn thuộc mẫu người linh hoạt và sáng tạo. Những hoạt động thiên về nghệ thuật, chẳng hạn biển diễn nghệ thuật, hội họa, viết lách, nấu ăn... chính là sở trường của bạn. Bản tính của bạn là sôi nổi, thích bộc lộ về mình trước mọi người, đầy nhiệt huyết và nhiều tài năng. Để phát triển những điểm này, bạn có thể tham gia vào nhà hoạt động mình yêu thích hoặc như nhóm học năng khiếu...
Tuy nhiên, bạn không muốn bị lâm vào thế bị động vì công việc, trách nhiệm cố tìm cách giải quyết chúng, mong tìm cho mình một khoảng trời riêng để thực hiện những dự định của bản thân, cho nên bạn hơi bị cực nhọc.
Từ 0h đến 6h
Bạn thuộc mẫu người phóng khoáng, tự do. Sự đơn điệu, buồn tẻ là kẻ thù của bạn, vì bạn là người thích được tự do, yêu mạo hiểm và luôn muốn đương đầu với mọi cam go, thử thách. Ở đâu có khó khăn, gian nan là có bạn, điều này đôi khi làm bạn trở nên tích cực thái quá trong mắt mọi người xung quanh.
Đồng hành với bản chất phóng khoáng của mình, bạn luôn thích khám phá những cơ hội mới vì chúng luôn mang cho bạn một tinh thần sảng khoái và hưng phấn trước những điều mới mẻ ấy.
Theo Gia Đình


Violet sinh vào khoảng minum 17-18h minum gì đó :") !!! senyumkenyitsenyumkenyitsenyumkenyit

Bói tuổi ( phương đông )

Hãy xem theo tuổi của bạn :

Tuổi Tí
(con Chuột)
Lẹ lắm , thấy mồi là Chuột không tha !
Khôn ngoan lại nhanh trí . Tuổi Chuột tận hưởng của dư thừa dù hư hỏng , tệ hại và lại rất rất mực hài lòng về việc nầy .
Tuổi nầy mê hương vị ngon ngọt và còn khoe ra cho mọi người biết nếu gặp dịp .
Ngoài tật nầy ra , tuổi Chuột chơi với ai cũng được và kết bè với nhiều bạn trung thành . Thật lạ !
Tuy bề ngoài cười cười nói nói ngọt ngào nhưng trong bụng thì không hiền gì .
Muốn làm gì thì đã tính toán trước kỷ lưỡng , chỉ tội tánh ham muốn làm ảnh hưởng trong lúc thực hành . Có lẻ vì vậy mà tuổi Chuột hay ra vẻ dễ thương và nài nỉ - trong bụng đã tính chuyện có lợi ($$$) cho mình !
Thích của "chùa" nhưng lại rất rộng rải với người cùng "loại" (ám chỉ bạn bè và người nhà tỏ ra trung thành).
Người khác thoạt nhìn vào Tuổi nầy thì nghĩ là người tánh khí bất thường , miệng lưỡi , nhưng không phải là hạng tồi tệ . Tội nghiệp !
Ðấu khẩu là nghề của chàng hay nàng , khiến cho người chung quanh hoặc thương hoặc ghét tức khắc .
Tuổi Chuột thích đứng ngoài nhìn vào trong để học hỏi , ít nhất cũng được đôi ba điều hay . Tánh tò mò có sẳn nên cũng thích thử thách để vươn lên . Không như vậy thì đâm chán nản . Tính tìm tòi mạo hiểm nầy tạo nhiều ưu điểm cho tuổi Chuột , trong đó phải nói đến khả năng đấu trí nhạy bén . Bằng không thì quả là phí tài ba suất sắc của tuổi chuột .
Tuổi Chuột cần phải biết cung kính người khác . Tỏ ra tự giác , tự trọng và đừng đụng chạm người khác trong đời sống . Tuổi nầy mới hưởng hạnh phúc thật sự .
Tam Hợp :
Tuổi Chuột hợp với tuổi Thìn (con Rồng) và tuổi Thân (con Khỉ).
Tứ Xung :
Tuổi Chuột khắc/kỵ tuổi Mão (con Mèo) , tuổi Ngọ (con Ngựa) và tuổi Dậu (con Gà).

Tuổi Sửu (con Trâu)
Là con bò mộng trong tiệm đồ sứ chớ không phải là con bò thường đâu!
Mặc dầu chậm chạp cứng chắc như thế , tuổi Trâu không phải là con bò sửa ngoài đồng.
Con vật khõe mạnh nầy sinh ra đã là bậc lãnh đạo , đáng tin cẩn , và có khả năng tự nhiên làm nên việc lớn .
Dầu vậy , tuổi Trâu rù rề và nguyên tắc - theo những dự toán từng bước một và không hề mất hướng .
Thiên hạ thấy tuổi Trâu quá nghiêm khắc và khó nới nẩm .
Phẩm tính bền chặc tự nhiên làm mất tình xả giao và trở thành ngượng ngập giữa đám đông . Tệ hơn nữa là Tuổi nầy không màng tới người khác suy nghĩ ra sao mà chỉ thích làm điều gì họ nghĩ là tốt cho họ .
Tuy làm mặt lạnh nhưng tuổi Trâu cũng không tránh khỏi chịu đau lòng , cô đơn , và mất thân ái với người khác .
Bạn bè và gia đình là nguồn an ủi lớn lao cho Tuổi này , ngay cả khi họ cũng không hiểu họ đã làm gì cho tuổi Trâu nổi sùng nữa .
Cứng đầu và độc đoán , tuổi trâu có khuynh hướng càn lên , xông xáo , không biết thối lui .
Nếu Tuổi nầy bị dồn ép vào chân tường thì có nước là Ðất cũng phải rung lên theo !
Nói tóm tắt là tuổi Trâu không quan tâm đến chuyện bị dồn đẩy lắm , bởi vì Tuổi nầy nghĩ là họ là người tốt trong thiên hạ . Lý thuyết nầy cũng đúng , bởi lẻ tuổi Trâu thông minh , đáng tin cậy , lo cho người , và đáng kính .
Nếu bạn cần lời khuyên chân thật , như nhất , và không thiên vị thì cứ hỏi tuổi Trâu .
Cái khó nhất cho tuổi Trâu là làm sao khắc phục mình khỏi phải tật thiên kiến đã khiến họ khó làm thân với người khác .
Nếu Tuổi nầy biết đánh giá những phẩm tính tốt của riêng mình , họ sẽ mở rộng tấm lòng ra để đón tha nhân vào .
Tam Hợp :
Tuổi Sửu hợp với tuổi Tỵ (con Rắn) và tuổi Dậu (con Gà).
Tứ Xung :
Tuổi Sửu khắc/kỵ tuổi Thìn (con Rồng) , tuổi Mùi (con Dê) và tuổi Tuất (con Chó).

Tuổi Dần (con Cọp)
Cọp có thể chẳng là chúa sơn lâm nhưng mấy con mèo rằn nầy cũng không dễ bị ăn hiếp !
Tuổi Cọp sanh ra đã là lãnh đạo , quyến rũ và kiêu hảnh .
Tuổi nầy có tướng mạo oai phong khiến người khác phải tuân phục , đúng như tuổi nầy muốn .
Hơn thế nữa , tuổi cọp thích kiếm ăn một mình , thích chính tay rình chụp con mồi . Rất nóng này !
Thời gian là điều cốt yếu cho tuổi Cọp , thà tới trước ngồi đợi chớ không chịu trể tràng .
Gan dạ thì không ai sánh lại . Tuổi Cọp thường tiên phuông trong chiến trận , không kể trong phòng họp hay trên giường ngủ .
Ở khu vực của phái đẹp hoặc chổ riêng tư thì tuổi Cọp tuyệt nhiên là Vua ! Quí phái và săn đón . Tuổi Cọp khiến cho người khác phái phải mê mệt tức khắc .
Thấy chuyện trái tai chướng mắt , Tuổi nầy đổ máu cho lẻ phải tới cùng .
Ðịch thủ chỉ nghe thấy Tuổi nầy thôi , cũng đã sợ trước .
Gần tuổi Cọp cũng phải cẩn thận một tí , bởi vì Tuổi nầy chụp bất tử đở không kịp .
Tuổi Cọp thường thay đổi tánh khí bất thường , lại thêm tánh căng thẳng hơn người khác nên có khi tốt , có khi xấu . Cũng vì thế nên nếu bị áp lực , Tuổi nầy lại đáp ứng không hữu hiệu nên dễ để lộ cảm xúc mãnh liệt cho người khác biết .
Chính các tật hơi hàm hồ nầy làm cho bạn cũng như thù đều phải né xa ra .
Tuổi Cọp nên tập tánh "điều hòa hóa" mọi chuyện .
Nếu tuổi Cọp tập trung làm chủ chính mình và hướng năng lực dồi dào của mình vào những việc xứng đáng (thay vì phải chạy trong suốt cuộc sống) thì sẽ làm nên việc lớn .
Tam Hợp :
Tuổi Cọp hợp với tuổi Ngọ (con Ngựa) và tuổi Tuất (con Chó).
Tứ Xung :
Tuổi Cọp khắc/kỵ tuổi Tỵ (con Rắn) , tuổi Thân (con Khỉ) và tuổi Hợi (con Heo).

Tuổi Mão (con Mèo)
Tuổi Mèo chân tướng lại là con Thỏ , muốn sửa lại cũng chẳng được .
Rụt rè mà lại thu hút người khác .
Gặp Tuổi nầy là bạn cứ thích nâng chìu giống như một con gấu bông của bạn .
Cho nên đừng ngạc nhiên khi thấy người tuổi Mèo được nhiều người biết đến và bạn bè , bà con ,dính líu không kể xiết .
Bản tính thương người khiến Tuổi nầy khi yêu ai thì yêu người ấy như chính bản thân mình vậy . Khi đã mê ai rồi thì cảm xúc lấn lướt mọi chuyện , đâm ra lý tưởng hóa mối quan hệ , nên thiệt thòi về mặt tình cảm , vì mình đã đi xa rời hiện thực .
Nhưng tuổi Mèo bảo : "Có mất mát gì đâu!" .
Khi thua trận phải rút quân , tuổi Mèo biết tập họp cơ sở bạn bè nòng cốt , điều chỉnh lối sống , và phục hồi lại như thường .
Người tuổi Mèo rất xúc cảm nếu không muốn nói là yếu lòng , nên cần phải có một chổ tựa vững chắc mới sống được . Mất sự an ủi đó và gặp ngang trái là họ phát khóc ngay , hay ngã ra bệnh .
Không cần phải nói , tuổi Mèo không ưa cải vả , chịu nhục cho qua cơn . Tuổi nầy cũng tỏ ra tiêu cực và bất động - cốt để che dấu tâm sự bất an , hay oan ức của mình .
Coi vậy chớ , bảo Tuổi nầy thay đổi chuyện gì theo ý bạn khuyên thì không được đâu , vì trời sinh Tuổi nầy có nhịp sống và suy nghĩ khác người , tự họ tìm đường giải quyết .
Niềm hạnh phúc của Tuổi nầy là được vui chơi trong chính căn nhà trang thiết bị đầy đũ theo ý họ .
Thể diện cũng quan trọng đối với Tuổi nầy . Ðó là lý do khiến họ lúc nào cũng trông nổi bật hơn người khác . Bỏ tiền chơi sang ? Không sai !
Tuy nhiên , điều tuổi Mèo cần nhất là biết đánh giá mình . Biết mình không đến nổi tệ thì đâu còn lo âu gì nữa .
Biết người biết ta cộng thêm một ít can đảm nữa là đạt tới thành công .
Tam Hợp :
Tuổi Mèo hợp với tuổi Mùi (con Dê) và tuổi Hợi (con Heo).
Tứ Xung :
Tuổi Mèo khắc/kỵ tuổi Tí (con Chuột) , tuổi Ngọ (con Ngựa) và tuổi Dậu (con Gà).

Tuổi Thìn(con Rồng)
Hạ thủ con Rồng ? Không được đâu !
Con Rồng là một trong những con giáp hùng mạnh nhất .
May thay tuổi Rồng vị tha , thông minh , và bền bĩ . Biết chắc mình muốn gì và quyết tâm đạt cho bằng được .
Hơn thế nữa , tuổi Rồng tạo ảnh hưởng trên bạn bè dễ dàng và thường là trung tâm điểm gây chú ý trong những cuộc họp mặt giao tế .
Như thế chưa đũ , tuổi Rồng lại đào hoa nữa !
Bạn bè lúc nào cũng chú tâm lắng nghe theo Tuổi nầy xúi giục và khi tới lúc cho ý kiến , tuổi Rồng nắm phần chủ thắng .
Rồng thì lúc nào cũng mô tả lớn hơn sự thật .
Tuổi Rồng kiêu hãnh bao nhiêu thì lại xuất sắc bấy nhiêu về mặt khởi công cũng như đốc thúc cho công việc được trôi chảy .
Tuổi Rồng nghĩ rằng mình sinh ra là để dẫn đầu !
Cả đời cũng không nghèo , nếu không muốn nói là khá giả hơn người , mặc dầu chẳng bao giờ Tuổi nầy bị mãnh lực đồng tiền kích động .
Tuổi Rồng thà ôm súng bắn không đạn chớ không chịu buông súng .
Nói vậy có nghĩa là tuổi Rồng biết lợi dụng thời cơ , luôn luôn tìm cách củng cố sức mạnh đã là đáng kể của mình .
Dũng mãnh như vậy cho nên khi lâm cảnh bực bội thua thiệt , tuổi nầy vẫn vùng vẫy không biết chịu thua là gì .
Cần vấn quan ? Hỏi tuổi Rồng !
Thật ra Tuổi nầy chỉ muốn có một vai trò : lãnh đạo , làm vua , ra lệnh .
Họ là người lãnh đạo thật sự , tự biết mình làm gì để được ngồi cao hơn hết .
Qua mặt tuổi Rồng thì không nên làm - coi chừng bị con nầy phun lửa phỏng da !
Lời khuyên cho tuổi Rồng : khôn ngoan là nên hấp thu những nguyên tắc về tùy thời , cảm thông và tha thứ . Cao hơn , mạnh hơn , tưởng như được người trọng nể , nhưng cũng khiến Tuổi nầy sống một cuộc sống không trọn vẹn .
Nếu như tuổi Rồng biết cân bằng giữa ước vọng thành công và biết tán thưởng chuyện nhỏ nhặt , họ sẽ sống một cuộc sống đáng sống hơn .
Tam Hợp :
Tuổi Rồng hợp với tuổi Tí (con Chuột) và tuổi Thân (con Khỉ).
Tứ Xung :
Tuổi Rồng khắc/kỵ tuổi Sửu (con Trâu) , tuổi Mùi (con Dê) và tuổi Tuất (con Chó).

Tuổi Tỵ(con Rắn)
Tuổi rắn nói một cách đơn giản là hên !
Có tài ngoại giao và được biết tiếng . Tuổi nầy toàn gặp may mắn về tiền bạc và thường dư dã hơn mức cần thiết , dẫu cho tiền bạc đối với Tuổi nầy không phải là mục tiêu sau cùng để theo đuổi , họ vẫn có dư .
Ðặc tính duyên dáng và rộng rải sẳn có khiến cho Tuổi nầy thu hút người khác phái .
Tưởng rằng mắt Rắn trông là ghê lắm . Tuổi Rắn quyến rũ nên có nhiều kẻ mê theo .
Tuổi nầy khó bị chinh phục , hơi nguy hiểm và khôn ngoan không ngờ được .
Con giáp nầy ngã nhiều về triết lý hơn .
Tính mộng mơ khiến cho Tuổi nầy bị ảnh hưởng của cảm xúc và trực giác khi phải quyết định làm việc gì .
Tuổi rắn không mấy tin vào ý kiến của người khác mà chỉ tin vào chính trực giác và ý riêng của mình .
Mặc dầu bề ngoài trông năng động và hoạt bát . Tuổi Rắn hay cảm thấy bất an đến nổi đôi khi lộ ra ghen tức và có tính chiếm hữu . Kết quả là người thân hóa thành kẻ lạ mà đúng ra không đến nổi lạnh nhạt như vậy .
Kẹt tiền ? Không sao , tuổi nầy vẫn nhờ vả gia đình , bè bạn được như thường .
Chổ đông người , tuổi Rắn hay tô điểm thêm hay nói quá câu chuyện cốt ý để tự an ủi mình .
Bị bỏ rơi ? Tuổi nầy tìm cách chinh phục lại vị thế tình cảm bằng mọi giá .
Tuổi Rắn ít khi để ý đến những tiểu tiết mà chính những chuyện nhỏ nầy đã gây nên bảo táp liên hồi !
Hơn thế , Tuổi nầy cố ý làm mọi cách để để mọi người chú ý tới mình .
Uyển chuyển là nghề của chàng hay nàng - có thể làm hai việc ngược nhau cùng một lúc mà vẫn chu toàn .
Tuổi rắn không ưa những người làm ăn dỡ chừng . Tuổi Rắn muốn người khác cũng làm chạy việc rập khuôn như chính họ .
Tuổi Rắn cần tập tánh kính trọng , khiêm tốn , cộng với tính tự chủ . Nếu tập tính huênh hoang cộng với tật cái gì cũng muốn làm cho bằng được thì phải sớm bạc đầu .
Một khi tuổi nầy nhận thức rằng : niềm tin phát xuất tự chính bên trong bản thân mình , họ sẽ đạt được hạnh phúc thật sự .
Tam Hợp :
Tuổi Rắn hợp với tuổi Sửu (con Trâu) và tuổi Dậu (con Gà).
Tứ Xung :
Tuổi Rắn khắc/kỵ tuổi Dần (con Cọp) , tuổi Thân (con Khỉ) và tuổi Hợi (con Heo).

Tuổi Ngọ(con Ngựa)
May là trời cũng có chỗ thênh thang cho ngựa chạy !
Năng động , biết làm tiền , thích đi đây đi đó .
Tuổi Ngọ là con Giáp du mục trong mười hai con giáp . Tới lui từ chổ nầy , dự án nọ , sang chổ khác , chương trình khác .
Giỏi là biết làm ra tiền .
Làm ra tiền cốt để thỏa mản ước vọng ngầm là cũng có chút đỉnh với người ta .
Tuy vậy Tuổi nầy vừa lo làm tiền mà vẫn giử được tính độc lập và tự do cho mình .
Tuổi ngựa vừa tình tứ lại vừa kín đáo khiến nên thường kẹt trong tình thế khó xử . Thế nhưng ái tình đến với Tuổi nầy một cách dễ dàng , bởi lẻ tuổi Ngọ tự mình phô bày hoặc quyến rũ người khác phái . Cứ xem trong các buổi tiệc tùng , bạn thấy tuổi ngựa có lẻ là tuổi thường hay có mặt nhất .

Mặc dù Tuổi nầy không có tính phô trương lắm nhưng cũng gắng tỏ ra là mình biết , mình khôn , mình giỏi một phần nào đó .
Ðiểm lạ là tuổi Ngựa hay cảm thấy mình hơi thua kém bạn bè chút đỉnh nên hay thay đổi nhóm bạn chỉ vì vô cớ cảm thấy mình có gì không hoàn chỉnh lắm .
Tính thiếu kiên nhẫn nầy khiến cho tuổi Ngựa ít chú tâm đến nhu cầu của người khác .
Tuổi nầy thà nắm chắc tình huống trong tay mình trước chớ không chờ đến kẻ khác tác động đến hoặc cho ý kiến vô . Tính "Một thân một ngựa" nầy khiến người khác phải né xa ra , nhưng lại khiến cho Tuổi nầy hùng dũng hơn và dễ thành công hơn .
Tuổi Ngựa rất là tự tin và sẳn sàng làm bất cứ việc gì để tiến lên trước hơn người khác .
Mặc dù tuổi Ngựa không có khuynh hướng nhìn xa một sự việc , nhưng lại rất nhạy bén biết điều gì là cần làm .
Tuổi nầy hăng làm và làm được việc thật sự .
Ðiều cần bổ túc lớn nhất cho tuổi Ngựa là phải tập cho tâm tính hòa nhã . Có như vậy mới không bị chao đảo và thấy rằng hạnh phúc trong đời là ngay đây , không phải đâu xa.
Tam Hợp :
Tuổi Ngựa hợp với tuổi Dần (con Cọp) và tuổi Tuất (con Chó).
Tứ Xung :
Tuổi Ngựa khắc/kỵ tuổi Tí (con Chuột) , tuổi Mão (con Mèo) và tuổi Dậu (con Gà).

Tuổi Mùi (con Dê)
Mơ mộng? Ðúng là tuổi con Dê !
Sáng tạo , bí hiểm và tự suy tự đoán . Những giáo điều không chính thống và cả những tuồng tích của tân trường phái cũng dễ dàng được tuổi này chấp nhận .
Tuy vậy tuổi Dê có nhiều năng khiếu và có dịp vẫn tiêu khiển ăn chơi như thường .
Thiên tính tổ chức , công việc làm ăn hay bị trộn lộn với ước mơ , ảo vọng .
Tìm một thợ thủ công hay một nghệ nhân thì cứ kiếm tuổi Dê ,và đừng quyên rằng tuổi này cũng quyến rũ lắm .
Có thể tại tánh khí nghệ sĩ nên tuổi Dê hay thấy mình bất ổn .
Tuổi này muốn được người khác yêu thương và tán thưởng .
Không được thì sinh ra ưu sầu , hoang mang .
Tánh quá nhạy cảm khiến cho tuổi Dê cảm thấy bất an liên hồi vì những chuyện không đâu . Chính cái tính hoang mang sợ sệt mông lung nầy mà tuổi Dê phải chịu khổ trên đường tình .
Một lần thất bại trong tình trường có thể khiến tuổi nầy ôm hận cô đơn suốt kiếp .
Tại sao vậy ?
Tuổi Dê tránh đụng chạm bằng mọi giá , kể cả phải hy sinh một mối tình cũng được . Tuy vậy , nếu đang yêu , tuổi Dê không ngần ngại nói cho người yêu những gì họ muốn - và năn nỉ về những điều đó không thôi .
Vậy thì tuổi Dê và Người tuổi nầy yêu : Ai "Dê" hơn !
Thật ra bên kia chủ động cũng không có gì đáng cho Tuổi nầy quan tâm mà còn hợp với cái tính lơ đảng và mơ hồ của tuổi Dê hơn .
Tuổi Dê cũng rất chú trọng diện mạo bên ngoài cho nên đừng lấy làm lạ khi khi thấy Tuổi nầy tốn nhiều thì giờ chải chuốt , ngắm nghía .
Lời khuyên cho tuổi nầy là cứ tập tánh thư thả và để cho người khác có lúc chủ động . Khi mà Tuổi nầy nhận thức được là bạn bè cũng như người mình yêu không thể bỏ rơi mình , nếu mình cởi mở và không vọng tưởng thì đời mình sẽ đẹp như một cánh đồng hoa , tha hồ tận hưởng !
Tam Hợp :
Tuổi Dê hợp với tuổi Mão (con Mèo) và tuổi Hợi (con Heo).
Tứ Xung :
Tuổi Dê khắc/kỵ tuổi Sửu (con Trâu) , tuổi Thìn (con Rồng) và tuổi Tuất (con Chó).





Tuổi Thân (con Khỉ)
Con Khỉ hay hờn là một con Khỉ tiệc tùng !
Dễ thương và nhiệt tình , tuổi Khỉ thèm thú vui , sinh hoạt , càng vui càng hay .
Tuổi này thường chuyển từ nhóm bạn này sang nhóm bạn khác kéo theo cả nhóm bạn tương phản nhau .
Nhờ nhanh trí , khôn lanh và tươi nhuần , Tuổi nầy được người thân cận xếp vào hạng có tiếng tăm .
Tuổi Khỉ cũng chịu khó nghe theo ý kiến của người khác và có khả năng giải quyết những tình huống phức tạp dễ dàng . Sanh ra đã là mang tính tò mò nên tuổi Khỉ biết nhiều chuyện lắm . Gặp bạn bè Tuổi nầy thế nào cũng lòe chút đỉnh kiến thức của mình .
Mặt yếu của tuổi Khỉ "quậy" là Tuổi nầy khó nhận nhận thức rõ ràng trắng đen phải trái . Hạnh phúc riêng mình mới là chuyện lớn , ngoài ra là lặt vặt bỏ đi cũng không sao . Cung cách này có lúc cũng được việc nhờ vào lanh lợi và biết chọn lời .
Không phải ai cũng bị tuổi Khỉ dẫn dụ được nhưng tuổi nầy có thật sự quan tâm đến điều đó không ? Người ta có thể bảo rằng : Người gì mà cứ thích đồn nhảm , bất cập - nhưng họ không hiểu là tuổi Khỉ trời sanh đã thích tò mò , cái gì cũng muốn thử một lần cho biết . Vì vậy quan hệ trong cuộc sống cũng hóa ra bình thường , đâu cũng vào đấy .
Ðặc tính thứ hai của tuổi Khỉ là mê chơi . Mê quá độ nên gặp rắc rối . Khó cầm lòng từ chối tham gia những cuộc vui , ăn nhậu . Kết quả của sự mê chơi là mệt mỏi và buồn lòng (người khác!) và Tuổi nầy mới thấy tỏ ra ân hận một chút . Tuổi Khỉ ít khi nhận lổi mình thẳng thừng nhưng ít ra cũng không tái phạm .
Tuổi Khỉ nếu có lúc chịu nghĩ đến người khác trước khi nghĩ đến bản thân mình , người xung quanh sẽ không phiền trách và cuộc sống tuổi này mới được vẹn toàn . Nhớ kỷ !
Tam Hợp :
Tuổi Khỉ hợp với tuổi Thìn (con Rồng) và tuổi Tí (con Chuột).
Tứ Xung :
Tuổi Khỉ khắc/kỵ tuổi Dần (con Cọp) , tuổi Tỵ (con Rắn) và tuổi Hợi (con Heo).



Tuổi Dậu (con Gà)
Trong 12 con giáp , tuổi Gà đáng ra là tuổi con Công xòe kênh kiệu !
Nhanh trí mà lại thực tiển và phong phú , Tuổi nầy nhất quyết chỉ làm những gì họ có làm qua hoặc cho là phải .
Tài quan sát sắc bén , không thể nào làm điều dấu diếm hay qua mặt Tuổi nầy được , y như tuổi Gà có cặp mắt phía sau lưng vậy !
Phẩm tính nầy làm cho nhiều người tưởng là tuổi Gà có "nghề" xũ quẻ hay bói toán .
Tánh thẳng thừng nên trung thành tuyệt đối .
Tuổi Gà không chao đảo , lay động , và chẳng cần rụt rè giử thể , họ là một cuốn sách đã mở sẳn , nói điều thật và giử lời .
Tuổi nầy nghĩ rằng mình phải có ý kiến thì người khác mới tôn trọng mình . Nhưng cũng vì tính thẳng thắn quá nên dễ bị kẻ khích động dụ dẫn mà không hay . Nhớ là tuổi Gà không hề bay trong mộng mị , lúc nào cũng đề cao cảnh giác .
Tuổi Gà dày dạn nầy làm điều chi cũng phải làm hoàn hảo và qui cách , đặc biệt là việc chăm sóc diện mạo . Chải chuốt và ngắm nghía hoài cũng thấy chưa được ! Một sợi tóc bung ra cũng không hài lòng . Nếu được lưu ý hay khen ngợi là cường tráng dầu chỉ là vài lời êm dịu , tuổi Gà sẽ chìu lòng hết mực .
Tuổi Gà thích đi xa nhà , đặc biệt đi với bạn bè yêu kính mình . Ở nhà ăn cơm một mình không xong , thà đi chơi thâu đêm với một bầy bạn hổn độn sướng hơn . Chưng diện thì có lẻ là nổi tiếng nhất xóm ! Ðúng "mode" mới là vấn đề , tiền bạc tốn kém không quan trọng .
Nổi bật thì có nổi bật , nhưng khi ở một mình thì tuổi Gà lại thích rút về cuộc sống đơn giản , thủ cựu .
Mặt ngược lại của tuổi Gà là dễ hóa ra tư lự hay mơ mộng không thôi đến chuyện đại sự , nếu có tình cảm ảnh hưởng đến . Tuổi Gà có khả năng mộng tưởng tận cùng đến khi nào thực tại xâm lấn mới chịu thôi .
Nói vậy chứ tuổi Gà là một trong những người đồng hành trung thành và đáng tin cậy nhất , sẳn sàng chịu thiệt để làm vui lòng bạn .
Tuổi Gà cần biết giá trị của tình cảm và linh hồn cũng không kém gì diện mạo . Mặt đẹp thì trí óc cũng phải bén nhạy và việc xử thế cũng phải tốt . Tất cả mới làm cho cuộc sống vuông tròn .
Tam Hợp :
Tuổi Gà hợp với tuổi Sửu (con Trâu) và tuổi Tỵ (con Rắn).
Tứ Xung :
Tuổi Gà khắc/kỵ tuổi Tí (con Chuột) , tuổi Mão (con Mèo) và tuổi Ngọ (con Ngựa).

Tuổi Tuất (con Chó)
Có phải con chó là bạn trung thành nhất của con người chăng ? Có thể lắm .
Trung thành , trung tín , trung trực .
Tuổi Chó có một đức hạnh vững vàng trong cách sống và đáng được trông cậy trong những lúc khó khăn .
Ngoài ra Tuổi nầy rất kín miệng , nghe chuyện người không bao giờ để lộ .
Tuổi Chó tinh ý nhận ra điều sai điều phải và giử vững trách nhiệm , làm trọn bổn phận cho tới cùng .
Tuổi nầy có một triết lý để sống : Sống phải đạo , giúp đở người cô thế , và chống lại bất công bằng mọi cách .
Nhớ rằng tuổi Chó một khi quyết định chuyện chi là quan trọng cho họ , Tuổi nầy theo đuổi chuyện đó tới cùng .
Tuổi nầy không thích truyện trò ruồi bu , chỉ chú tâm vào mấu chốt của sự việc mà thôi .
Tuổi nầy cũng vui buồn bất chợt không lường trước được , ví như một con chó phóng ra gặp bạn không biết chắc là nó sẽ liếm chân mừng hoặc cắn bứt giò bạn .
Tuổi Chó cũng có lúc làm việc liều mạng khi cảm thấy lo âu bồn chồn vô cớ . Cần có thời gian gần gủi để tìm hiểu , Tuổi nầy mới từ từ tin tưởng người đối diện được .
Thiếu sự tin cậy nầy , tuổi Chó đâm ra xét đoán phiến diện , chỉ trích và thô lổ với người khác . Hơn thế nữa , Tuổi nầy có chút đỉnh bất thường về phương diện tình ái , lúc thương lúc ghét khó lường , mà khi đã không thích ai rồi thì có thể ghét người ấy tận mạng .
Tuổi Chó có điểm hay là làm thương mại giỏi , lượm đồ vụn vặt cũng làm nên tài sản bạc triệu như chơi .
Nói về đường tình duyên thì ôi sao lận đận , tìm hoài cũng chẳng thấy ý trung nhân . Tuổi nầy có tánh độc tài về mặt tình cảm , thương yêu ai thì yêu cho bằng được và cũng bắt buộc người tình đáp lại tối đa !
Ðiều khuyên cho tuổi Chó là hãy dẹp bỏ những nổi lo âu vô lý và những đòi hỏi xa vời thiếu thực tế , chỉ làm cho người mình thương tránh né một cách đáng tiếc .
Tam Hợp :
Tuổi Chó hợp với tuổi Dần (con Cọp) và tuổi Ngọ (con Ngựa).
Tứ Xung :
Tuổi Chó khắc/kỵ tuổi Sửu (con Trâu) , tuổi Thìn (con Rồng) và tuổi Mùi (con Dê).

Tuổi Hợi (con Heo)
Chắc chắn là người tuổi con Heo sống trong màu hồng !
Sang và trọng . Tuổi này dễ thứ tha và có cung cách hoàn chỉnh và tài thưởng ngoạn có một không hai .
Tuổi Heo hoàn chỉnh cho đến nổi người khác nhìn vào tưởng họ là kẻ tự phụ . Những người đó đã lầm to . Tuổi Heo vị tha và không hề nghĩ mình là trên trước người khác . Tuổi này đùm bọc bạn bè và gia tộc , và chịu khổ nhọc để cho người khác được hạnh phúc .
Giúp người là hạnh phúc thực sự của tuổi Heo , nhìn thấy người ta vui thì tuổi này mới vui . Nhưng thực tế phủ phàng cho tuổi Heo là không ai biết đến và tán thưởng việc này .
Tuổi Heo quá tử tế và rộng lượng như một vị thánh hiền nên dễ bị kẻ xấu làm hại hoặc lợi dụng !
Tuổi Heo biết trọng người nên làm bạn với Tuổi này là hưởng trọn đức tính nổi bật đó của tuổi Heo . Mặc dù vui vẻ như đã nói , tuổi Heo cũng có lúc cau có nếu có ai bảo là họ đang có một điều gì dó trật . Nhưng cũng là đúng cho Tuổi này thôi !
Tuổi Heo không ưa mấy kẻ làm tài lanh dạy khôn mình mà chỉ thích làm những gì mình thấy phải làm .
Nếu bạn giữ sao cho đừng chỉ trích tuổi Heo , Tuổi này phải phải là những người bạn chân tình và trung thành nhất trong thế gian .
Ðã có tiếng tăm , tuổi Heo lại thông minh cực độ . Tuổi nầy vừa học vừa chơi , vừa tìm tòi để bổ sung kiến thức .
Tuổi nầy cũng mê ăn mê uống khiến cho người ta trêu là Tuổi mê ăn trong mười hai con giáp ! Thức ăn thức uống phải là thượng hạng .
Vì có tấm lòng vàng , Tuổi nầy là người bạn đời tuyệt vời của bạn . Tuy vậy , tuổi Heo có tính phân biện trong đối xử , ai thích họ thì họ đáp ứng lại vô vàn , người không thích họ thì họ giả lơ không nói tới .
Ðiều khuyên cho tuổi Heo là nên mở rộng cuộc sống hoạt động ra hơn nữa . Càng đem bản thân mình hội nhập vào dòng người muôn dạng thì tuổi Heo lại càng nổi hơn .
Tam Hợp :
Tuổi Heo hợp với tuổi Mão (con Mèo) và tuổi Mùi (con Dê).
Tứ Xung :
Tuổi Heo khắc/kỵ tuổi Dần (con Cọp) , tuổi Thân (con Khỉ) và tuổi Tỵ (con Rắn).


Nguồn : boivui.vnthutinh.com

Sunday, June 21, 2009

Đã từ lâu rồi + Khóc

ĐÃ TỪ LÂU RỒI

Đã từ lâu rồi mình we^n mất cái cảm giác có đc niềm vui trọn vẹn...
Vì cuộc sống này có bao h` như ý muốn của mình...
Người ta nói,
Khó khăn sẽ giúp ta trưởng thành hơn
Nhưng tại sao cứ mỗi lần vấp ngã,
Mình lại thấy ko còn muốn đứng dậy nữa...
Nếu không đi lên,
Con người sẽ tuột lại phía sau,
Đó là quy luật,
Biết thế,
Nhưng bản thân vẫn ko tự đứng lên đc...

Vì đơn giản, đã từ lâu rồi
Mình không còn tin vào chính mình nữa,
Mình là ai ?
Tại sao mình lại có mặt trên cõi đời này ?
Tại sao mình lại phải chứng kiến những điều đang diễn ra xung quanh mình,
Mặc dù có đôi lúc nó quá khắc nghiệt khiến cho mình như muốn bật khóc...

Nhưng mà,
Tại sao phải khóc nhỉ ?
Mình có khóc thì cũng vậy thôi...
Toàn những ánh mắt thờ ơ,
Xót thương trong giả tạo,
An ủi cho có vậy thôi...

Rồi chợt nhận ra một điều rằng,
Đã từ lâu rồi,
Mình ko còn nhận đc tình yêu thương, chăm sóc thật sự...
Tất nhiên là trừ mẹ...
Không ai trên thế gian này yêu mình hơn mẹ...

Đó cũng là lúc mình biết đc rằng,
Một "he" màh mình đang "thix" thật ra cũng chỉ là vì,
Từ lâu rồi ko có ai đối xử dịu dàng, ân cần với mình như vậy,
Có lẽ mình "thix" người ta thật, nhưng đối với "him" đó chỉ là xã giao...
Ùh thì đúng là vậy màh...
Làm sao có thể đc......
Tình cảm của mình, chỉ là ngộ nhận,
Hay mình đang tự lừa dối chính bản thân...
Âm thầm...chịu đựng...ko ai biết

Mẹ,
Cũng đã từ lâu rồi,
Mẹ ko có tình yêu thật sự
Một sự quan tâm chăm sóc thật sự,
Của bất kỳ ai,
Trừ mình.......
Một số phận...2 người phụ nữ,
Đơn độc màh sống,
Yêu thương, đùm bọc nhau màh sống,
Vì giá trị của 2 con người ấy ko đc ông trời "thương",
Ko đc người đời "thương",
Đúng ra là ganh tỵ...

Đã từ lâu rồi, cái ngày gia đình vui vẻ bên nhau,
Không còn..................
Còn hay không...?
Không ai biết......
Họ nhìn vào gia đình mình, nghĩ mình sung sướng, nghĩ mình hạnh phúc...
"Có đắp chăn mới biết trong chăn có rận..."
Sung sướng, hạnh phúc...mãi mãi chỉ là vẻ bề ngoài...
Có những sự thật không ai biết.....
Về gia đình này, về những điều xã hội "dành" cho cái nhà này....
Có ai biết...có ai thấu...có ai thông cảm.......
Không một ai,
Toàn những kẻ thờ ơ,
Xót thương trong giả tạo...




KHÓC

Những điều như thế,
Chỉ lại khiến mình muốn khóc,
Nhưng khóc làm gì chứ,
Khóc để nói cho thế gian này biết rằng mình đang rất đau đớn,
Hay để cho những "kẻ kia" cười ngạo nghễ vì mình đang đau đớn...
Khóc để mong có đc một bờ vai dựa vào,
Hay khóc để ướt đi gương mặt của con gấu bông mình đang ôm...
Khóc để vơi đi những nỗi đau,
Hay khóc rồi càng khiến mình thêm đau đớn...
Khóc để thấy đôi mắt mình còn long lanh,
Hay khóc rồi mới biết đôi mắt đã vô hồn từ lâu...
Khóc để thấy cuộc đời vẫn còn đẹp,
Hay khóc để thấy sau màng nước mắt, cuộc đời vẫn u tối...
Khóc để thấy mình vẫn còn "cảm" vẫn còn "rung động" với cuộc đời,
Hay khóc để thấy những giọt nước mắt thật vô cảm và không giá trị......

Người ta hay nói,
Nước mắt người con gái giống như những viên ngọc quý,
Khiến ai nấy đều trân trọng,
Và không bao h` để người con gái khóc...
Sai rồi,
Nước mắt của mình hả,
Làm gì có giá trị với ai,
Mình có buồn cũng chẳng ai buồn theo.....
Có lẽ là trừ mẹ.......
Mình có khóc cũng chẳng ai màn tới,
Có lẽ cũng trừ mẹ.......
Nhưng màh,
Mẹ còn đau gấp trăm ngàn lần mình,
Thì làm sao mình có thể làm mẹ đau hơn nữa....
Thế là lại,
Âm thầm, chịu đựng........

Entry này.....viết lúc mình đang....ngồi cạnh cửa sổ.....màn đêm mịt mờ....gió cứ cuốn......dưới đường xe cứ lăn bánh.....như vòng đời cứ thế màh quay.....ko thương xót......ko nuối tiếc điều gì.....còn mình....mình tiếc nuối những ngày tháng vui vẻ khi xưa..................

Nếu có một điều ước ngay lúc này, tôi sẽ ước CUỘC SỐNG LUÔN NẰM TRONG SỰ KIỂM SOÁT CỦA MÌNH.......và......TÔI SẼ CÓ ĐC NIỀM VUI TRỌN VẸN.......thứ màh ĐÃ TỪ LÂU RỒI tôi không với tới đc....và KHÓC là cách duy nhất để tôi trút bớt nỗi đau...........

Violet Mỹ Linh

:sorry::sorry::sorry::sorry::sorry:

Tứ đại "mỹ" nhân !!!

Hỏi “Tứ đại mỹ nhân Trung Quốc”, mấy ai không biết đó là bốn nàng: Tây Thi, Chiêu Quân, Điêu Thuyền và Dương Quí phi. Nhưng hỏi danh tính bốn phụ nữ có nhan sắc xấu nhất Trung Quốc cổ đại, dám chắc ít người nói được.

Xin giới thiệu đôi chút về bốn vị này:

Nguyễn Nữ. Bà là con gái Nguyễn Đức Huệ. Truyền thuyết nói rằng Hứa Doãn, thời Đông Tấn vào đêm tân hôn với Nguyễn Nữ, vừa nhìn thấy mặt bà đã sợ quá bỏ chạy.
Bạn của Hứa Doãn là Hằng Phạm đến chơi, nói với bạn: “Họ Nguyễn gả con gái mặt mũi xấu xí cho bạn, tất có nguyên nhân, bạn hãy quan sát, xem xét cô ta”. Hứa Doãn nghe lời bạn, mới vào động phòng. Nhưng vừa thấy dung mạo của vợ lại muốn chạy ra ngoài.. Nguyễn Nữ ôm chặt lấy Hứa Doãn. Hứa Doàn vừa dẫy dụa vừa hỏi: “Đàn bà có tứ đức, nàng có được mấy điều? Nguyễn Nữ trả lời: “Thiếp chỉ không có dung mạo đẹp đẽ. Người đọc sách cũng có trăm nghề, chàng biết được mấy nghề?” Hứa Doãn trả lời: “Ta biết cả trăm!” Nguyễn Nữ nói: “Theo thiếp biết thì trăm nghề lấy đức làm thứ nhất, chàng chỉ ưa thích phụ nữ có nhan sắc không ưa thích phụ nữ đức hạnh, liệu có thể nói là mọi điều đều tốt cả không?” Hứa Doãn không biết nói lại ra sao, cảm thấy kiến thức của Nguyễn Nữ không vừa.
Cùng sống với nhau một thời gian, Hứa Doãn càng cảm nhân sâu xa phẩm hạnh tốt đẹp của Nguyễn Nữ. Từ đó, vợ chồng kính yêu lẫn nhau sống một cuộc sống rất mỹ mãn.

Mô Mẫu. Tương truyền Mô mẫu thân hình giống quỉ Dạ Xoa, xấu xí không ai bằng, được coi là người xấu xí nhất thời cổ. Trong “Tứ tử giảng đức luận”, Hán Vương Tử Uyên có nói: “Mô mẫu người lùn, dù hiền lành nhưng vẫn không giấu nổi (bộ mặt) xấu.Tuy vậy đức hạnh của Mô Mẫu được phụ nữ đương thời ca ngợi”.
Trong “Cửu chương, tích vãng nhật”, Khuất Nguyên đã đánh giá Mô Mẫu rất cao. Trí tuệ của Mô Mẫu cũng không tầm thường vì thế Hoàng đế đã cưới bà làm vợ. Truyền thuyết nói, Hoàng đế đánh bại Đế Viêm, giết Suy Vưu, đều có công của Mô Mẫu giúp đỡ bên trong.

Vô Diêm (Có người còn gọi là Vô Diệm, nhưng theo đúng âm Hán Việt thì là Vô Diêm). Ngưòi ta thường gọi “mặt như Vô Diêm” để chỉ những phụ nữ xấu xí. “Vô Diêm” là chỉ nàng Chung Li Xuân, có khuôn mặt không xinh đẹp người huyện Vô Diêm, nước Tề thời Chiến quốc. Trong sách nói: “Nnàng bốn mưoi tuổi mà chưa lấy chồng” vì “tướng mạo không có ai xấu hơn”. Tuy vậy, nàng rất quan tâm đến việc lớn quốc gia, tự đến xin gặp Tề Hoàn Công, trực tiếp chỉ trích nhà vua xa hoa hủ bại. Hoàn Vương nghe xong rất cảm động, lập bà làm hoàng hậu.

Mạnh Quang. “Tay nâng ngang mày” là câu thành ngữ nói về nàng Mạnh Quang vợ hiền sĩ Lương Hồng đời Đông Hán. Tương truyền, Mạnh Quang theo Lương Hồng đến đất Ngô làm thuê. Mỗi khi dọn cơm cho Lương Hồng, bao giờ nàng cũng bưng mâm cơm lên ngang mày để tỏ lòng kính trọng chồng. Nghe nói trước khi lấy vợ, Lương Hồng đã là người nổi tiếng, có nhiều gia đình muốn gả con gái cho nhưng ông đều từ chối. Còn Mạnh Quang khi chưa lấy chồng, mặc dù “vừa xấu vừa đen” nhưng dù có người làm mối bà đều từ chối, nói “chỉ lấy Lương Hồng thôi”. Nghe nói sau này hai vợ chồng vào núi ở ẩn, chồng cầy vợ cấy, sống một cuộc sống thanh bần nhưng hoà hợp vui vẻ.



D.Q.A (gt)

Tứ đại mỹ nhân: Dương Quý Phi

Dương Quý Phi

Dương Quý Phi (chữ Hán:楊貴妃, 719 - 756) là một cung phi của Đường Minh Hoàng. Bà được xếp vào một trong Tứ đại mỹ nhân của lịch sử Trung Quốc.

Tiểu sử


Dương Quý Phi tên thật là Dương Ngọc Hoàn (楊玉環), sinh ở tỉnh Tứ Xuyên vào khoảng năm 719. Bà là con út trong số bốn người con gái của một vị quan tư hộ đất Thục Chân. Gia đình này nguyên gốc ở một quận nhỏ thuộc Trung Đông[1], là Hòa Âm đến đây lập nghiệp. Cha là Dương Huyền Diễn thuộc dòng khá giả vì tổ phụ từng làm thứ sử tại quận Kim.

Thọ vương phi

Năm 727, Hoàng Thọ vương Lý Dục, con thứ 18 của Đường Huyền Tông đi tuần tiễu miền Tứ Xuyên đến tiếp xúc với gia đình nàng. Chín năm sau, Ngọc Hoàn được tiến cung hầu Lý Dục. Thọ vương Lý Dục tính nhút nhát, thích ngắm mỹ nhân. Dương Ngọc Hoàn về hầu hạ Lý Dục được ba năm, nhưng chuyện chăn gối chẳng bao giờ có vì Lý Dục còn nhỏ. Khi ấy, Ngọc Hoàn lại trong tuổi dậy thi. Vì hay bị Lý Dục làm khó nên nàng đã có ý định ra khỏi cung khi vua Lý Dục dụ nàng ra khỏi hoàng cung...[cần dẫn nguồn]

Quý phi

Lấy cha chồng

Đời nhà Đường, Đường Minh Hoàng tức Huyền Tông là một ông vua trị vì lâu hơn cả. Các cung phi được nhà vua sủng ái sinh cả thảy 59 người con, trong số đó có 30 trai và 29 gái. Cung phi được nhà vua sủng ái nhất là Vũ Huệ Phi. Bà này sinh được 7 con, nhưng bỏ mất 3 khi còn nhỏ. Huệ Phi mất, Huyền Tông buồn rầu, ngày nhớ đêm thương, lập đài Tập Linh để cầu siêu cúng vái cho vong hồn Huệ Phi được sớm siêu thăng. Nội giám thấy nhà vua vậy bèn tìm đủ mọi cách làm cho nhà vua nguôi buồn. Nhưng bao nhiêu cung tần mỹ nữ cũng không làm Huyền Tông khuây khỏa.

Một hôm Cao Lực Sĩ đi qua phủ Thọ vương thấy Ngọc Hoàn là giai nhân tuyệt sắc, bèn nghĩ rằng có lẽ mỹ nhân này thay được Vũ Huệ Phi. Nhân buổi hầu vua, Cao Lực Sĩ mật tấu với Huyền Tông, truyền đưa Dương Ngọc Hoàn vào Tập Linh đài để trông coi đèn nhang sớm hôm cầu nguyện cho Vũ Huệ Phi. Do đó, Ngọc Hoàn phải vào cung Hoa Thanh đến đài Tập Linh làm sãi, lấy đạo hiệu là Thái Chân. Cao Lực Sĩ lại chọn con gái của Vị Chiêu để thay Ngọc Hoàn làm vợ Thọ vương Lý Dục.
Được sủng ái

Trông thấy Ngọc Hoàn, Huyền Tông say mê mẩn ngay, từ đó dần quên đi Huệ Phi. Huyền Tông lập nàng làm quý phi, lại sắc phong Dương Huyền Diễn làm Binh bộ thượng thư. Ba chị của Ngọc Hoàn cũng được phong làm phu nhân là Hàn quốc phu nhân, Quốc quốc phu nhân và Tần quốc phu nhân. Hàng tháng, nhà vua cho xuất của kho 30 vạn quan tiền cho mỗi vị phu nhân, 10 vạn quan tiền mua sắm tư trang phấn sáp. Anh họ quý phi là Dương Xuyên được phong làm tể tướng và được đổi tên là Dương Quốc Trung.

Huyền Tông say đắm Dương Quý Phi, chiều chuộng nàng hết mực. Như cuộc đi tắm suối của nàng mỗi lần tốn hàng vạn bạc của kho và làm chết hàng trăm mạng người[cần dẫn nguồn], nhà vua cũng thẳng tay, không chút tiếc rẻ. Dương Quý Phi đã đẹp lại có tài gẩy tỳ bà, giỏi về âm nhạc. Nàng lại đặt được nhiều khúc hát và điệu múa làm cho Huyền Tông càng thích thú say sưa hơn. Nàng nổi tiếng với điệu múa Hồ hoàn vũ, là điệu múa xuất phát từ người Hồ.

Huyền Tông gặp Dương Quý Phi lúc tuổi đã ngoài 50, cơ thể suy nhuợc vì trải qua những thú vui sắc dục thái quá. Vua nhờ An Lộc Sơn dâng một thứ linh đan gọi là "Trợ tình hoa" giúp có nhiều sức khỏe để được hòa hợp vui say cùng Dương Quý Phi.

Tư thông với An Lộc Sơn

Huyền Tông say đắm Dương Quý Phi, suốt ngày đêm cùng nàng yến tiệc đàn ca, bỏ cả việc triều chính. Nhà vua lại tin dùng An Lộc Sơn là một võ tướng người Đột Quyết, cho giữ phần chỉ huy nửa lực lượng quân sự của triều đình. Có sách lại chép An Lộc Sơn được Dương Quý Phi nhận làm con nuôi, được tự do ra vào cung cấm để cùng thông dâm với Quý Phi. Huyền Tông mù quáng, không hiểu biết gì cả.
Kết cục

Bấy giờ, anh Dương Ngọc Hoàn là Dương Quốc Trung nắm giữ toàn quyền binh lực. Sau khi lên đến bực thượng thư và hai con trai là Dốt và Huyên sánh duyên cùng hai quận chúa Vạn Xuân và Diên Hòa, Dương Quốc Trung lại càng kiêu hãnh, tự đắc, có ý định phản nghịch. Thấy An Lộc Sơn như cái gai trước mắt nên định mưu hại. An Lộc Sơn biết được nên bỏ trốn. Rồi vào ngày 16 tháng 12 năm 755, An Lộc Sơn cử binh từ quận Ngư Dương[2] đánh thẳng vào kinh đô Trường An, lấy lý do "trừ bỏ gian thần Dương Quốc Trung". Binh triều đại bại.

Vào mùa hạ năm 756, quân của An Lộc Sơn tiến về Trường An. Trước tình thế nguy cấp, thái tử Lý Hanh tự lên ngôi ở núi Linh Vũ, tức là Đường Túc Tông và vọng tôn Đường Minh Hoàng làm Thái thượng hoàng. Trong khi các cánh quân được vua con Túc Tông cử đi đánh Lộc Sơn là Lý Quang Bật, Quách Tử Nghi đang thắng liên tiếp, giành lại nhiều đất đai ở phía đông sau lưng An Lộc Sơn thì Huyền Tông lại mắc sai lầm lớn ở mặt trận phía tây. Vua cha bắt tướng trấn giữ ải Đồng Quan - cửa ngõ kinh thành Tràng An - là Kha Thư Hàn phải xuất quân đánh Lộc Sơn, trong khi các tướng muốn phòng thủ để chờ quân của Tử Nghi và Quang Bật đánh về. Thư Hàn buộc phải ra quân, kết quả đại bại, 20 vạn quân bị giết, Thư Hàn bị Lộc Sơn bắt sống. Quân Phiên ào ạt tiến vào Tràng An.

Thượng hoàng Huyền Tông và Dương Quý Phi cùng một số quần thần phải bỏ kinh thành chạy vào đất Thục. Ngày 14 tháng 7 năm 756, mọi người đến Mã Ngôi thì tướng sĩ không chịu đi nữa, vì lương thực đã hết, quân sĩ khổ nhọc mà Dương Quốc Trung và cả gia quyến đều no đủ sung sướng, nên họ nổi lên chống lại. Dương Quốc Trung ra lệnh đàn áp nhưng bị loạn quân giết chết. Lòng căm phẫn đối với họ Dương chưa tan, loạn quân bức vua đem thắt cổ Dương Quý Phi thì họ mới chịu phò vua. Vì họ cho rằng Quý Phi là mầm sinh đại loạn, thậm chí còn nghi ngờ Dương Quý Phi sẽ trở thành một Võ Hậu thứ hai gây họa cho nhà Đường.

Nhà vua không còn cách nào khác, đành phải hy sinh Dương Quý Phi. Khi đó bà 38 tuổi.

An Lộc Sơn chiếm được Trường An, ra lệnh cho quân lính đốt phá kinh đô, tàn sát nhân dân. Sử chép: "Có 36 triệu sinh linh chết trong cơn loạn ấy. Quân Phiên gặp ai cũng chém cũng giết, thực là một cuộc đổ máu không tiền khoáng hậu trong lịch sử Trung Hoa, mà nguyên nhân sâu xa là do cái sắc của một người đàn bà dâm loạn".

Sau An Lộc Sơn bị con là Khánh Tự giết chết. Bộ tướng là Sử Tư Minh lại giết Khánh Tự mà hàng nhà Đường. Túc Tông khôi phục sự nghiệp, rước vua cha Minh Hoàng trở về Trường An.

Lại có giả thuyết đề cập đến việc sau khi Dương Quý Phi bị giết và chôn ở ngoài cung, một phó tướng của An Lộc Sơn là Mai Văn Siêu vì quá si mê Dương Quý Phi nên đã đào mộ và hãm hiếp xác của bà, qua sự việc đó Mai Văn Siêu mắc một chứng bệnh phong tình gọi là Dương Mai sau này (chữ Dương của Dương Quý Phi với chữ Mai của Mai Văn Siêu), dần dà gọi thành bệnh Giang Mai

Wikipedia

Tứ đại mỹ nhân: Điêu Thuyền



Điêu Thuyền


Điêu Thuyền (chữ Hán: 貂蟬, bính âm: diào chán) là một người đẹp trong tứ đại mỹ nhân Trung Hoa và là một nhân vật nổi tiếng thời Tam Quốc. Điêu Thuyền được mệnh danh là người đẹp bế nguyệt, có sắp đẹp khiến cho trăng cũng phải xấu hổ mà giấu mình đi.

Điêu Thuyền bái nguyệt ở hậu hoa viên của Tư Đồ Vương Doãn, đại thần của Hán Hiến Đế thời Tam Quốc. Đột nhiên có một cơn gió nhẹ thổi đến, một vầng mây trôi che khuất mặt trăng. Đúng lúc đó, Vương Doãn bước ra nhìn thấy. Để khen con gái nuôi mình xinh đẹp như thế nào, Vương Doãn thường nói với mọi người rằng con gái mình đẹp đến nổi trăng sáng nhìn thấy cũng phải trốn vào sau lưng mây. Vì vậy, Điêu Thuyền được mọi người xưng tụng là "Bế Nguyệt".

Điêu Thuyền là con nuôi trong nhà Tư đồ Vương Doãn, được gả cho cả 2 cha con nuôi Đổng Trác và Lã Bố để tùy cơ ly gián, một mặt tỏ vẻ yêu quí Đổng Trác, nhưng khi đến với Lã Bố thì lại ra sức quyến rũ, khi đến cao trào thì Lã Bố chịu không nổi đả kích giết luôn Đổng Trác. Mưu sĩ Lý Nho của Đổng Trác biết trước sự nguy hiểm của Điêu Thuyền, nhưng không sao can thiệp được mà trước đó chỉ biết thốt lên "Bọn ta đều chết cả về tay người đàn bà này".

Có bài hát ca ngợi vẻ đẹp của Điêu Thuyền :

Phải người cung cũ Chiêu Dương?

Xiêm y mây cuốn vương vương cánh hồng

Nhẹ nhàng mình liễu như bông,

Gót hài uyển chuyển trên lòng bàn taỵ

Động đình lạc lối hoa bay,

Lương châu thoăn thoắt sen cài bước chân

Nhà vàng gió cợt cành xuân,

Trăm hoa nhường vẻ thanh tân một người!

Lại có người tả cảnh Đổng Trác mê say tiếng đàn, giọng hát, ánh mắt và vẻ xuân của nàng:

Nhất điểm anh đào khải giáng thần
Lưỡng hàng toái ngọc phún dương xuân
Đinh hương thiệt thổ hành cương kiếm
Yêu trảm tà gian loạn quốc thần!

Tạm dịch:

Một đóa anh đào chúm chím môi,
Đôi hàng răng ngọc rạng xuân tươi.
Hương đưa đầu lưỡi tàng hơi kiếm:
Chém chết gian thần có lúc thôi!

Đó là khi:

Rèm châu vừa cuốn lên, thì Điêu Thuyền nhè nhẹ gót hài bước ra, xiêm y thướt tha, mình liễu uyển chuyển múa trước rèm châu như tiên nữ nhập động. Điêu Thuyền lại hát. Nàng vừa cầm phách gõ nhịp cất giọng ca. Giọng trong như oanh kêu, cao như hạc gọi, khi trầm khi bổng thánh thót như rót vào tai, mà huyền huyền ảo ảo làm mê hồn tục khách.

Chính kế liên hoàn của Vương Doãn và Điêu Thuyền đã giết Đổng Trác, hại Lã Bố, là việc mà binh hùng tướng mạnh không làm được.

Trong "Thánh Thán Ngoại Thư", Mao Tôn Cương viết về Điêu Thuyền như sau:

"18 lộ quân chư hầu không giết nổi Đổng Trác, mà một thiếu nữ đào tơ liễu yếu như Điêu Thuyền lại giết nổi Trác. Ba anh em Lưu, Quan, Trương hùng liệt không thắng nổi Lữ Bố, mà chỉ một nàng Điêu Thuyền thắng nổi. Ôi, lấy chăn chiếu làm chiến trường, lấy son phấn làm khôi giáp, lấy mày ngài làm cung nỏ, lấy nước mắt nũng nịu làm tên đạn, lấy lời tình tứ ngọt ngào làm chiến lược mưu cơ. Xem thế thì cái bản lãnh của "nữ tướng quân" quả là tuyệt cao cường, đáng sợ thay!"

Trong Biên niên sử Tam Quốc chí do Trần Thọ chủ biên không có đoạn nào nhắc đến Điêu Thuyền, chỉ nhắc đến:"Lữ Bố thông gian với tiện nữ của Trác, sợ bị bại lộ, nên hợp tác với Vương Doãn để giết Trác."

Wikipedia

Tứ đại mỹ nhân: Vương Chiêu Quân



Chiêu Quân (chữ Hán: 昭君, bính âm: zhào jun) là một trong Tứ đại mỹ nhân của lịch sử Trung Quốc. Với sắc đẹp được ví là "lạc nhạn" (làm cho chim sa), câu chuyện về nàng trở thành một đề tài sáng tác phổ biển của thi ca, nghệ thuật. Chiêu Quân đi vào lịch sử Trung Quốc như một người đẹp hòa bình. Sự quên mình của nàng góp phần mang lại hòa bình trong 60 năm giữa Trung Hoa và Hung Nô

Tiểu sử

Chiêu Quân tên là Vương Tường (王牆), nên cũng được gọi là Vương Chiêu Quân (王昭君). Nàng là con gái của một gia đình thường dân ở Tỉ Quy (秭归), Nam Quận (南郡), nay là huyện Hưng Sơn, tỉnh Hồ Bắc. Được tuyển vào nội cung vào khoảng sau năm 40 TCN, đời vua Hán Nguyên Đế (49 TCN-33 TCN). Trong thời gian ở hậu cung, Chiêu Quân chưa bao giờ được gặp mặt vua và vẫn chỉ là một cung nữ (宮女). Năm 33 TCN, thiền vu Hung Nô là Hô Hàn Tà (呼韓邪) đến Trường An để tỏ lòng thần phục nhà Hán, một phần trong hệ thống triều cống giữa nhà Hán và Hung Nô. Ông này nắm lấy cơ hội để đề nghị được trở thành con rể của vua Nguyên Đế. Thay vì gả cưới một công chúa cho thiền vu thì Hô Hàn Tà đã được ban cho 5 cung nữ từ hậu cung, một trong số này là Vương Chiêu Quân.

Theo một câu chuyện trong Hậu Hán Thư (quyển 89, Nam Hung Nô liệt truyện) thì Vương Chiêu Quân đã tình nguyện theo thiền vu này. Khi được vời đến triều đình thì vẻ đẹp của Chiêu Quân đã làm cho Nguyên Đế sững sờ và muốn thay đổi quyết định của chính mình.

Chiêu Quân trở thành người vợ được yêu quý của Hô Hàn Tà, được phong là Ninh Hồ Yên Chi (宁胡阏氏)[2]. Họ sinh được hai người con trai, chỉ một trong số đó sống sót với tên gọi là Y Chư Trí Nha Sư (伊屠智牙師) và một người con gái, tên là Vân (雲), sau này là một nhân vật đầy quyền lực trong hệ thống chính trị của Hung Nô[3]. Năm 31 TCN, Hô Hàn Tà chết, Chiêu Quân muốn trở về Trung Quốc, nhưng Hán Thành Đế đã buộc nàng phải theo tập quán nối dây của người Hung Nô và Chiêu Quân trở thành vợ của thiền vu tiếp theo là Phục Chu Luy Nhược Đề (復株累若鞮)- con trai lớn của Hô Hàn Tà. Trong cuộc hôn nhân mới này nàng có hai người con gái. Sau khi chết, Chiêu Quân được táng tại "Thanh Trủng", mộ hiện nay vẫn còn tại phía nam thành Hô Hòa Hạo Đặc, Nội Mông Cổ.

Hòa bình giữa nhà Hán và Hung Nô đã được kéo dài trên 60 năm, tuy nhiên, sau này người ta đã không còn biết gì về các hậu duệ của Chiêu Quân.

Kể từ thế kỷ 3 trở đi thì câu chuyện về Chiêu Quân đã được phóng tác nên như là hình tượng của một nhân vật nữ đầy bi thương trong nhiều tác phẩm thơ ca hay kịch, chẳng hạn như của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Vương An Thạch, Quách Mậu Thiến, Mã Trí Viễn, Tào Ngu, Quách Mạt Nhược, Tiễn Bá Tán v.v.

Truyền thuyết


Chiêu Quân Cống Hồ

Thanh Trủng tại Nội Mông Cổ

Câu chuyện về Chiêu Quân được gọi Chiêu Quân Cống Hồ trở thành một điển tích. Tồn tại nhiều dị bản, trong đó có nhiều chi tiết còn mâu thuẫn. Nổi tiếng hơn cả là bản kể theo những tài tiệu của nhà sử học Ngô Quân (469-520).

Vì số cung phi trong hậu cung của vua Nguyên Đế quá đông, nên nhà vua ra lệnh cho các họa sĩ phải vẽ hình các cung phi để nhà vua chọn. Các cung phi thường lo lót tiền cho họa sĩ để được vẽ cho đẹp, mong vua để ý tới. Chiêu Quân từ chối đút lót cho họa sĩ là Mao Diên Thọ, hậu quả bức chân dung nàng thật xấu xí nên nàng không được Hán Nguyên Đế để mắt tới.

Một hôm hoàng hậu tình cờ biết tới Chiêu Quân qua tiếng đàn lâm ly ai oán của nàng. Bà đưa Chiêu Quân tới gặp Hán Nguyên Đế. Hán Nguyên Đế ngỡ ngàng vì sắc đẹp của nàng, phong Chiêu Quân làm Tây phi. Mao Diên Thọ bị khiển trách nặng nề.

Thời bấy giờ Hung Nô là nước lân bang thường xuyên mang quân sang quấy nhiễu. Mao Diên Thọ bị Hán Nguyên Đế quở trách, đem lòng oán hận Chiêu Quân, lấy chân dung Chiêu Quân nạp cho thiền vu (vua) Hung Nô là Hô Hàn Tà (呼韓邪). Vua Hung Nô say đắm sắc đẹp của nàng, cất quân sang đánh, buộc Hán Nguyên Đế phải cống nạp Chiêu Quân thì mới bãi binh. Hán Nguyên Đế đành phải đem Chiêu Quân sang cho Hung Nô. Điểm này không khớp với lịch sử Hung Nô, do từ thời Hô Hàn Tà thì các thiền vu đã chịu nộp cống phẩm cho nhà Hán.

Truyền thuyết "Chiêu quân xuất tái" (昭君出塞, "Đi đến biên cương") nói rằng, khi Chiêu Quân đi ngang một hoang mạc lớn, lòng nàng chan chứa nỗi buồn vận mệnh cũng như lìa xa quê hương. Nhân lúc ngồi lưng ngựa buồn u uất, liền đàn "Xuất tái khúc". Có một con ngỗng trời bay ngang, nghe nỗi u oán cảm thương trong khúc điệu liền ruột gan đứt đoạn và sa xuống đất. Từ "lạc nhạn" trong câu "Trầm ngư lạc nhạn" do đó mà có.

Khi qua Nhạn Môn Quan, cửa ải cuối cùng, Chiêu Quân được cho là đã cảm tác nhiều bài thơ rất cảm động. Tiếng đàn của Chiêu Quân ở Nhạn Môn Quan trở thành điển tích Hồ Cầm.

Ngôi làng quê hương của nàng ngày nay mang tên là làng Chiêu Quân. Dòng suối, nơi tương truyền nàng từng ra giặt vải trước khi được tuyển vào hoàng cung, được đặt tên là Hương Khê (suối thơm) để tưởng nhớ nàng. Trong miền Nội Mông Cổ có hai địa điểm được cho là mộ của Chiêu Quân, một gần Hohhot và một gần Bao Đầu, cả hai đều xanh ngắt cỏ tươi, nên đều được gọi là Thanh Trủng (mồ xanh).

Những chi tiết còn mâu thuẫn

* Khi vẽ Chiêu Quân, có thuyết cho rằng Mao Diên Thọ đã vẽ thêm một nốt ruồi dưới khóe mắt và tâu với Hán Nguyên Đế đó là "Sát phu trích lệ", tướng sát chồng. Vì vậy Hán Nguyên Đế không cho vời nàng tới tận khi Chiêu Quân bị cống sang Hung Nô. Một thuyết khác thì Chiêu Quân tài hoa tự vẽ chân dung của mình, nhưng bức tranh đó bị Mao Diện Thọ điểm thêm nốt ruồi "Sát phu trích lệ".
* Nhà văn nổi tiếng Thái Ung (132-192) cho rằng vua Nguyên Đế đã từng gặp Chiêu Quân, nhưng không biết cảm nhận vẻ đẹp của nàng. Chiêu Quân vô cùng thất vọng và đau khổ sau nhiều năm sống cô độc trong cung cấm. Từ đó, Thái Ung kết luận rằng quyết định sang Hung Nô của Chiêu Quân là một hành động phản kháng lại vua Nguyên Đế.
* Về cái chết của Chiêu Quân cũng có nhiều giả thuyết.

1. Đến Nhạn Môn Quan, Chiêu Quân gieo mình xuống sông tự vẫn.
2. Chiêu Quân đến đất Hồ, nàng yêu cầu vua Hồ giết chết gian thần Mao Diên Thọ, rồi sau đó nàng tìm cách tự tử, nhảy xuống sông để xác nàng theo dòng trôi trở về đất Trung Nguyên.
3. Một thuyết khác cho rằng Chiêu Quân đã sống một thời gian dài bên Hung Nô.

Wikipedia

Tứ đại mỹ nhân: Tây Thi


Tây Thi

Tây Thi (chữ Hán: 西施; bính âm: xi shi, 506 TCN-?) là một người con gái rất đẹp thời Xuân Thu và cũng là một trong Tứ đại Mỹ nhân Trung Quốc. Tây Thi có nhan sắc làm cá phải ngừng bơi mà lặn xuống đáy nước (trầm ngư), người con gái đó đã có công lớn trong việc giúp Phạm Lãi, Văn Chủng và Việt Vương Câu Tiễn diệt vua Ngô Phù Sai.

Truyền thuyết

Tây Thi, tên là Thi Di Quang (施夷光)[1] là con một người kiếm củi họ Thi, nàng dệt vải ở núi Trữ La, Gia Lãm (nay là Chư Kỵ), thuộc nước Việt cổ. Trữ La có hai thôn: thôn Đông và thôn Tây, vậy nên gọi là Tây Thi. Tương truyền Tây Thi đẹp đến nỗi, ngay cả khi nàng nhăn mặt cũng khiến người ta mê hồn.

Khi nàng giặt áo bên bờ sông, bóng nàng soi trên mặt nước sông trong suốt làm nàng thêm xinh đẹp. Cá nhìn thấy nàng, say mê đến quên cả bơi, dần dần lặn xuống đáy sông. Từ đó, người trong vùng xưng tụng nàng là "Tây Thi Trầm Ngư".

Trong trận đánh quyết tử với Ngô, do không nghe lời can gián của Văn Chúng và Phạm Lãi nên vua nước Việt là Câu Tiễn bại trận, bị bên Ngô buộc vợ chồng Câu Tiễn phải sang Ngô làm con tin. Câu Tiễn quyết chí trả thù, Văn Chủng trước khi Câu Tiễn sang Ngô đã hiến cho vua 7 kế, trong đó có một kế là "Mỹ nhân kế"-dâng người đẹp mê hoặc vua Ngô. Trong vòng nửa năm, Câu Tiễn tuyển được 2000 mỹ nữ, trong đó có hai người đẹp nhất là Tây Thi và Trịnh Đán.

Nam Cung Bắc tả Tây Thi qua con mắt của Câu Tiễn và Phạm Lãi:

Câu Tiễn bắt gặp ngay đôi mắt trong suốt như dòng suối lạnh, lòng đen đen tuyền óng ánh phát hào quang, thoáng chốc như hớp hồn nhà vua
Tây Thi như một đóa hoa còn chớm nụ hàm tiếu, bao nhiêu nét tươi trẻ thanh xuân dường như ẩn hiện trong góc mắt đuôi mày. Mắt nàng trong suốt, mày nàng phương phi, miệng nàng chúm chím, đường nét tạo thành nàng dường như là ảo tưởng.
Cái đẹp của Tây Thi như lóe hào quang, như thái dương.

Có nhiều chuyện đã được dựng thành phim kể về mối tình Tây Thi - Phạm Lãi, Tây Thi - Phù Sai.

Tây Thi - Phạm Lãi

Khi lựa chọn Tây Thị và Trịnh Đán đưa sang Ngô, lúc ấy Phạm Lãi và Câu Tiễn chưa hề biết mặt nàng. Nhưng khi qua đến xứ người, Tây Thi bí mật liên lạc với hai người này, đồng thời lo lót cho Bá Hi vốn là nịnh thần của Ngô vương Phù Sai để y nói giúp Phù Sai nhằm giảm bớt cực nhọc cho Câu Tiễn.
Công lao của Tây Thi ở nước Ngô rất lớn, mặc dù nàng và Phạm Lãi lúc ấy đã phải lòng nhau, nhưng không hề bộc lộ ra mặt mà âm thầm giúp sức cho Câu Tiễn vốn đang nhịn nhục tìm cách trả thù. Ngô Phù Sai bắt vợ chồng Câu Tiễn phải làm cỏ mộ, mặc áo vải xấu, mỗi ngày chỉ ăn một chén cơm hẩm. Tây Thi và Phạm Lãi cũng âm thầm cấu kết với Bá Hi trợ cấp thêm một số lương thực cho vợ chồng Câu Tiễn khỏi chết đói. Có giả thuyết cho rằng, sau khi diệt được Ngô vương Phù Sai, vợ của Việt vương Câu Tiễn sợ rằng sắc đẹp của Tây Thi sẽ lôi cuốn Câu Tiễn nên tìm kế giết. Phạm Lãi biết chuyện đã dắt Tây Thi bỏ đi trốn vào Ngũ Hồ.

Tây Thi - Phù Sai

Phù Sai được Tây Thi, mừng và rất chiều chuộng nàng:

Tây Thi được ở đài Cô Tô với Phù Sai, mỗi khi đi chơi đâu thì nghi vệ chẳng khác gì phi hậu. Trịnh Đán ở Ngô cung, ghen với Tây Thi, uất ức không nói ra được, hơn một năm thì chết. Phù Sai thương lắm, đem chôn ở núi Hoàng Mao và lập đền thờ cúng. Chuyện này sau sẽ kể tiếp, bây giờ hãy nói Phù Sai yêu Tây Thi, sai Vương Tôn Hùng lập ra cung Quán Khuê ở núi Linh Nham, trang sức toàn bằng châu ngọc để làm chỗ cho Tây Thi ra chơi. Ở đấy có lập ra Hưởng Điệp lang. Tại sao lại gọi là Hưởng Điệp? Điệp là chiếc guốc. Nguyên là người ta đào hầm ở dưới đất chỗ hành lang, đặt ở đấy rất nhiều chum, bên trên lát ván, để Tây Thi và cung nhân đi guốc lượn ở đấy, tiếng kêu leng keng, cho nên gọi là hưởng điệp. Trên núi có hồ Ngoạn Hoa, ao Ngoạn Nguyệt. Lại có giếng gọi là giếng Ngô Vương, nước trong suốt, Tây Thi thường đứng ở trên mà soi mặt, Phù Sai đứng ở bên cạnh, sẽ lấy tay vuốt tóc cho Tây Thi. Lại có động gọi là động Tây Thi, Phù Sai và Tây Thi cùng ngồi ở đấy, đá ở ngoài cửa động có nhiều chỗ sụt, nay người ta gọi là vết chân Tây Thi. Trên núi lại có Cầm Đài, Phù Sai thường cùng với Tây Thi gẩy đàn ở đấy. Phù Sai lại sai người trồng hoa ở Hương Sơn, để Tây Thi và cung nhân chở thuyền đi hái hoa. Nay vẫn còn một dãi nước ở phía nam núi Linh Nham, đó tức là chỗ Tây Thi hái hoa ngày xưa. Lại có Thái Liên hình ở phía đông nam thành đô, đó là chỗ Phù Sai cùng Tây Thi hái sen. Phù Sai lại bắt đào một con sông nhỏ ở trong thành, từ nam sang bắc, rồi làm cái buồm gấm để đi chơi thuyền, gọi là Cẩm Phàm hình. Phía nam đô thành có Trường Châu uyển, để làm nơi săn bắn. Lại có Ngư Thành để nuôi cá, Áp Thành để nuôi vịt, Kê Bi để nuôi gà, Tửu Thành để nấu rượu. Lại thường cùng với Tây Thi ra nghỉ mát tại Nam Loan ở Tây động đình, đó là một cái vịnh độ hơn mười dặm, ba mặt đều là núi, chỉ có mặt nam trông như cửa khuyết. Phù Sai cho chỗ ấy là một nơi có thể qua mùa hè được, mới đặt tên là chỗ Tiên.(Trích đoạn Đông Chu liệt quốc)

Phù Sai là một vị vua anh hùng, nhưng từ khi Tây Thi xuất hiện thì lại lơi lỏng việc nước, bỏ bê chính sự. Tây Thi theo kế của Văn Chủng ra sức mê hoặc khiến vua Ngô ngày đêm cùng nàng chìm đắm trong xa hoa, hưởng lạc, dần dần mất hết ý chí. Bởi chỉ khi nước Ngô suy yếu thì Việt mới có cơ hội phục thù.
Tuy nhiên, việc Phù Sai cho Câu Tiễn về nước phần lớn đều do Tây Thi tác động. Trong một đêm trà dư tửu hậu, Tây Thi sau khi hết lời ca ngợi Phù Sai rồi chuyển qua phỉ báng vua của mình. Nàng khuyên Phù Sai nên tha cho Câu Tiễn vì nhìn vợ chồng ông vua này đã ở dưới đáy bùn của sự sỉ nhục, không còn khí thế của vua chúa nữa. "Ngài đối xử tệ bạc với họ chẳng khác nào để cho quần hùng trong thiên hạ chê cười". Sau nhiều lần suy nghĩ, bỏ mặc ngoài tai lời can ngăn của Ngũ Tử Tư, Phù Sai thả vợ chồng Câu Tiễn và Phạm Lãi về nước Việt. Vì vậy trong mắt người nước Ngô, Tây Thi đích thực là một yêu cơ khuynh đảo cả triều chính, còn đối với dân nước Việt thì nàng là một nữ nhi yêu nước, đem thân mình ra cứu nguy xã tắc nước Việt.

Hậu sự

Có nhiều thuyết nói về kết cục của Tây Thi. Có thuyết cho rằng Phạm Lãi rủ người đẹp Tây Thi lên thuyền đi vào Ngũ Hồ, cắt đứt mọi mối quan hệ với thế giới bên ngoài, sống cuộc đời phóng khoáng tự do, khi ca hát, khi câu cá, lúc đọc sách, mặc cho thời gian trôi qua.

Nhưng có thuyết khác bác bỏ ý trên. Đông Chu Liệt Quốc cho rằng khi diệt được Ngô, Câu Tiễn định mang Tây Thi về Việt nhưng vợ Câu Tiễn ghen nên bí mật sai người bắt nàng, buộc đá vào cổ và đẩy xuống sông cho chết. Vì thế Phạm Lãi chỉ đi một mình.

La Ôn có thơ minh oan cho Tây Thi rằng:

"Nước nhà còn mất bởi cơ trời
Sao cứ Tây Thi đổ lỗi hòài ?
Tây tử nếu làm Ngô mất nước
Thì xưa Việt mất bởi tay ai ?"

Wkipedia

Saturday, June 20, 2009

Những đại mỹ nhân khác của Trung Quốc ( chi tiết )

Ngoài " tứ đại mỹ nhân" chúng ta cũng phải nhắc đến những tên tuổi khác.

Triệu Cơ



Triệu Cơ người Hàm Đan nước Triệu cuối thời Chiến Quốc, là mẹ của Tần Thủy Hoàng. Triệu Cơ đóng vai trò quan trọng trong âm mưu đưa Tần Thủy Hoàng lên ngôi của Lã Bất Vi.

Triệu Cơ vốn là thiếp của Lã Bất Vi, người tuyệt đẹp, múa giỏi đàn hay. Khi đó Tần công tử, Tử Sở, làm con tin ở nước Triệu nghèo khó khốn cung. Lã Bất Vi ra tay cứu giúp, xin Hoa Dương phu nhân nhận Tử Sở làm con nuôi, trở thành người thừa tử của thái tử An Quốc Quân.

Một lần Tử Sở sang nhà Bất Vi, nhìn thấy Triệu Cơ đem lòng say mê. Lã Bất Vi đem nàng dâng cho Tử Sở, khi đó Triệu Cơ đang mang thai. Tử Sở bèn lập nàng làm phu nhân, đến kỳ Triệu Cơ sinh con đặt là Chính.

Năm thứ 50, đời vua Chiêu Vương nước Tần, Tần sai Vương Ý vây Hàm Đan rất gấp. Nước Triệu muốn giết Tử Sở. Tử Sở cùng Lã Bất Vi mưu đưa sáu trăm cân vàng cho kẻ coi giữ nên trốn thoát về Tần. Triệu muốn giết Triệu Cơ và Chính, nhưng Triệu Cơ là con nhà tai mắt ở Triệu, lẩn trốn được vì thế mẹ con đều sống.

Năm thứ năm 56, Tần Chiêu Vương mất, thái tử An Quốc Quân lên làm vua, lập Hoa Dương phu nhân làm hoàng hậu, Tử Sở làm thái tử. Sau thời gian khốn khó ở Triệu, Triệu Cơ cùng Chính về Tần. Vua Tần lên ngôi được một năm thì mất, thái tử Tử Sở lên thay, tức là Trang Tương Vương.

Trang Tương Vương làm vua được ba năm thì mất, thái tử tên là Chính lên ngôi Tần Vương, tức Tần Thủy Hoàng, Triệu Cơ trở thành Thái hậu. Khi Tần Vương còn nhỏ tuổi, thái hậu Triệu Cơ thường lén lút tư thông với Lã Bất Vi. Về sau Tần Thủy Hoàng đã lớn, Lã Bất Vi sợ lộ sẽ mang vạ, bèn ngầm tìm kẻ dương vật lớn là Lao Ái, dùng làm người nhà. Lã Bất Vi sai Lao Ái làm trò vui, lấy dương vật của mình tra vào bánh xe gỗ đồng mà đi. Thái hậu Triệu Cơ nghe thấy muốn được Lao Ái cho riêng mình, Lã Bất Vi bèn cho Lao Ái giả làm hoạn quan rồi đem dâng cho thái hậu. Từ đó Triệu Cơ cùng Lao Ái thông dâm, sinh được hai con. Lao Ái đem hai đứa con đi dấu, định lập mưu đợi Tần Thủy Hoàng chết thì lập con hắn làm vua.

Năm thứ 9 đời Thủy Hoàng, có kẻ phát giác Lao Ái thực không phải là hoạn quan và thường thông dâm với thái hậu. Tần Thủy Hoàng liền giao cho pháp đình xét, biết rõ sự tình. Tháng 9 năm đó Tần Thủy Hoàng giết cả ba họ nhà Lao Ái. Lại giết hai con do thái hậu đẻ ra và đày thái hậu Triệu Cơ sang đất Ung. Tháng 10 năm thứ 10, sau khi cách chức Lã Bất Vi, Tần Thủy Hoàng mới sang Ung đón thái hậu Triệu Cơ về Hàm Dương.

Năm thứ 19 đời Thủy Hoàng, thái hậu Triệu Cơ mất, tên thụy là Đế thái hậu, chôn một chỗ với Trang Tương Vương ở Chỉ Dương

Đát Kỷ



Đát Kỷ , hay còn gọi là Đắc Kỷ, là một cung phi được sủng ái của Trụ Vương nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc. Bà cũng là người thân với hoàng hậu của Trụ Vương. Bà không được học chữ, nhưng được nhận định là thông minh và gian xảo

Đát Kỷ trước khi làm cung phi cho Trụ Vương đã từng bị đày ở lãnh cung. Rồi bằng cách nào đó được Trụ vương đưa về cung và rất cưng chiều.

Trụ vương nổi tiếng là một ông vua *** đãng. Ông mê Đát Kỷ đến quên việc triều chính. Ông và Đát Kỷ là một cặp được nhắc đến trong lịch sử Trung Quốc với sự phẫn nộ của nhiều người.


Đát KỷTương truyền, trong cung Trụ có một nơi phục vụ cho thú vui của vua Trụ. Đát Kỷ và vua, cùng nhiều cung tần mỹ nữ khác thường xuyên vui chơi trụy lạc tại đây. Họ ra lệnh dùng roi đánh khắp thân thể những con vật thật đau, để hằn lên vết đỏ, rướm máu, sau đó nướng chúng lên để thưởng thức. Chỗ này được thiết kế với những hồ nhỏ, vua cho đổ rượu vào đầy hồ và xuống tắm rượu cùng các mỹ nhân và Đát Kỷ.

Có lần Đát Kỷ bất hòa với thân thuộc của vua là Tỷ Can, bắt ông này phải moi tim ra cho bà xem. Một vị quan giỏi xem tinh tượng, bói toán cũng vì bất hòa mà bị bà cho dựa lưng vào cột vừa nung đỏ, cháy cả lưng.

Đát Kỷ bị dân gian nghi vấn là hồ ly hóa thành, vì được biết bà rất rậm lông chân.

Các sử gia đời sau thường cho rằng, vì việc quá yêu Đát Kỷ, Trụ vương đã làm nhiều điều thất đức, trượt theo vết xe đổ của vua Kiệt nhà Hạ say đắm nàng Muội Hỷ đến nỗi làm hỏng chính sự và mất nước về tay nhà Chu. Sau nay cuối thời Tây Chu lại có chuyện Chu U vương si mê nàng Bao Tự mà cũng lặp lại bi kịch như Trụ vương làm nhà Tây Chu mất.

Như vậy xét về nép đẹp, Đát Kỷ cũng thuộc hàng đại mỹ nhân của Trung Hoa, nhưng không được kính nể trọng vọng như Tứ Đại Mỹ Nhân và người đời gọi bà là yêu cơ.

Hạ Cơ



Hạ Cơ là một người con gái thời Xuân Thu (722 TCN - 480 TCN), tương truyền rằng nàng có thuật "hoàn tân".

Hạ Cơ vốn là gái nước Trịnh, sau về làm dâu nước Trần. Nàng là cô gái ăn chơi rất lịch lãm, sử sách nói sau khi ăn nằm với ai rồi, nàng trở lại "hoàn tân" như cũ. Điều đặc biệt là hễ ai đã ân ái với nàng thì thường gặp phải tai vạ và chết. Người ta nghi nàng có thuật "Hấp tinh đại pháp".

Người tình đầu tiên của nàng là công tử Trần Man, tư thông với nàng vài năm rồi qua đời. Sau đó nàng có chồng là Tư mã Hạ Ngự Thúc, hai vợ chồng có một con trai là Hạ Trưng Thư, rồi Ngự Thúc cũng chết.

Hạ Cơ lại tiếp tục dan díu với hai quan trong triều là Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ, hai quan này làm việc ô uế công khai. Một hôm Khổng Ninh lấy trộm cùa nàng cái "Cẩm dương" (quần lót bằng gấm) về khoe. Nghi Hàng Phủ thấy vậy nổi cơn ghen, cố nài xin cho được chiếc "Bích la nhu" (áo lót bằng lụa màu xanh) để trêu lại. Khổng Ninh cả giận liền tiết lộ cho vua Trần Linh Công biết. Trần Linh Công nghe kể thích quá liền nhập cuộc chơi, Hạ Cơ liền tặng vua chiếc áo lót nữa.

Từ đó, sau mỗi lần bãi triều, cả ba thường đem "bảo vật" ra khoe với nhau. Trong triều có quan Đại phu Tiết Giả là bầy tôi trung, thấy vậy liền can vua và chỉ trích hai tên quan kia. Nhà vua ngoài miệng hứa chừa, nhưng âm mưu với Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ, giết Tiết Giả. Tiết Giả chết rồi không còn có ai dám can ngăn nữa, cả ba mặc sức tung hoành trác táng đến nỗi dân nước Trần đã đặt bài vè "Châu Lâm" (Châu Lâm là nơi Hạ Cơ đang ở) để chê trách Linh Công.

Hạ Cơ cho Trưng Thư về kinh đô để học, cũng mong cho con ngày sau nối nghiệp cha. Trưng Thư lớn lên, có tài võ nghệ, Linh Công cho Thư nối chức cha làm Tư mã, ở lại kinh. Từ đó Hạ Cơ một mình tiếp luôn ba người không biết mệt mỏi.

Một hôm Hạ Trưng Thư ở kinh về Châu Lâm trông thấy vua Trần Linh Công và Khổng Ninh, Hàng Phủ cùng Hạ Cơ đang vầy cuộc ái ân, ăn nói suồng sã bỉ ổi *** loạn, lập tức Hạ Trưng Thư cho quân vây quanh nhà và giết được Trần Linh Công còn hai tên kia chạy thoát qua nước Sở, vào kêu với Sở Trang Vương rằng Hạ Trưng Thư giết vua để cướp ngôi.

Trang Vương đem binh đánh Trần, giết Hạ Trưng Thư. Thấy Hạ Cơ xinh đẹp ý muốn thu dùng, nhưng một bầy tôi là Khuất Vu, một tướng lãnh tài ba, trẻ tuổi, đẹp trai, lại luyện được phép "Bí thuật phòng trung", bấy lâu đã nghe tiếng Hạ Cơ có ngón ăn chơi trác tuyệt muốn thử lửa một phen bèn ra sức can Sở Trang Vương đừng thu dùng nàng. Trang Vương lại muốn gả cho người khác, Khuất Vu cũng lại can, cuối cùng vua gả cho một vị tướng già là Tương Lão. Hạ Cơ lại thông *** với con Tương Lão, việc đổ bể Hạ Cơ trốn sang nước Trịnh, còn con của Tương Lão bị hành hình.

Khuất Vu đi sứ sang Trịnh, nhân cơ hội đó Khuất Vu tư thông với Hạ Cơ, rồi đưa nàng trốn sang Tấn "xây mộng uyên ương". Mấy năm sau Khuất Vu đem nàng sang nước Ngô và ở hẳn nơi này. Từ đấy về sau không còn ai biết Hạ Cơ ra sao nữa.

Võ Tắc Thiên



Võ Tắc Thiên (武則天) (625 - 16 tháng 12, 705), tên riêng Võ Chiếu (武曌), là nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Trung Quốc đã lập ra triều đại của riêng mình, nhà Võ Chu (周), và cai trị dưới cái tên Thánh Thần Hoàng Đế ((聖神皇帝) từ 690 đến 705. Việc bà nổi lên nắm quyền cai trị bị các nhà sử học Khổng giáo chỉ trích mạnh mẽ nhưng các nhà sử học từ sau thập kỷ 1950 đã có cái nhìn khác về bà.

Gia đình bà có nguồn gốc ở huyện Văn Thuỷ (文水), thuộc quận Tinh Châu (幷州) (hiện nay là thành phố Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây). Văn Thủy hiện là một huyện thuộc Lữ Lương Địa Khu (吕梁地區) nằm cách Thái Nguyên 80km về phía tây nam. Cha bà là Võ Sĩ Hoạch (武士彠) (577-635), một thành viên thuộc một gia đình quý tộc danh tiếng ở Sơn Tây, và là một thành viên liên minh của Lý Uyên, người sáng lập ra nhà Đường, khi ông tiến hành chiến tranh giành quyền Lực (chính Lý Uyên cũng thuộc một gia đình quý tộc nổi tiếng ở Sơn Tây). Mẹ bà là Dương Thị (楊氏) (579-670), một phụ nữ thuộc gia đình quý tộc hoàng gia nhà Tuỳ. Võ Tắc Thiên không phải sinh ở Văn Thuỷ, bởi cha bà đảm nhận nhiều chức trách ở nhiều nơi trong suốt cuộc đời. Bà được cho là sinh ở Lợi Châu (利州) hiện là thành phố Quảng Nguyên (廣元市), phía bắc tỉnh Tứ Xuyên, cách Văn Thủy khoảng 800km về phía tây nam, nhưng một số nơi khác cũng được cho là nơi sinh của bà gồm cả thủ đô Trường An.

Bà được đưa vào hậu cung vua Thái Tông nhà Đường vào khoảng năm 638 (một thời điểm khác có thể là: 636) và là một Tài Nhân (才人), tức là một trong chín người thiếp cấp thứ năm. Vua Thái Tông đặt tên cho bà là Mị (媚), có nghĩa là "duyên dáng, xinh đẹp", và vị nữ hoàng trẻ thường được người Trung Quốc gọi là Võ Mị Nương. (武媚娘).

Năm 649, Thái Tông chết, và theo thói thường đối với những người thiếp, Võ Mị Nương phải rời cung đình và để vào chùa Phật giáo, nơi bà sẽ phải xuống tóc. Không lâu sau, có lẽ là vào năm 651, bà lại được vua Cao Tông, con của Thái Tông, đưa trở lại hoàng cung bởi vì ông đã sửng sốt trước sắc đẹp của bà khi đi cúng tế cho cha. Vợ vua Cao Tông, người họ Vương (王), đóng vai trò quan trọng trong việc đưa Võ Mị Nương hòa nhập lại vào cung đình. Nhà vua lúc ấy đang rất sủng ái một người thiếp họ Tiêu (蕭) và hoàng hậu hy vọng rằng khi có một người thiếp đẹp mới nhà vua sẽ thôi chú ý tới người thiếp kia. Các nhà sử học hiện nay đang tranh cãi về câu chuyện lịch sử này, và một số nghĩ rằng Võ Tắc Thiên trên thực tế chưa hề rời khỏi hoàng cung, và rằng có thể bà đã có tình ái với vị thế tử (người sau này là vua Cao Tông) từ trước, khi vua Thái Tông còn đang sống. Dù sự thực thế nào chăng nữa, vẫn chắc chắn rằng tới đầu những năm 650 Võ Tắc Thiên đã là thiếp của vua Cao Tông và bà được gọi là Chiêu Nghi (昭儀), mức cao nhất trong chín cấp bậc của những người thiếp thuộc hàng thứ hai. Việc vị hoàng đế lấy một trong những người thiếp của cha mình, và lại từng là một bà sư như các nhà sử học truyền thống tin tưởng là một cú sốc đối với những nhà đạo đức Khổng giáo.

Võ Tắc Thiên nhanh chóng bộc lộ tài năng của mình trong việc vận động và lập mưu mẹo. Đầu tiên bà tống người thiếp họ Tiêu khỏi ngáng đường, mục tiêu tiếp sau chính là hoàng hậu. Năm 654, con gái của Võ Tắc Thiên bị giết. Hoàng hậu họ Vương bị nghi ngờ là ở gần phòng của đứa trẻ. Bà bị nghi là đã giết nó vì ghen tuông và sau đó bị hành hình. Truyền thuyết kể rằng Võ Tắc Thiên đã giết chính con của mình, nhưng có lẽ điều này là do các đối thủ của bà và các nhà sử học Khổng giáo bịa ra. Ngay sau đó, bà được hoàng đế phong làm Thần Phi (宸妃), ở thứ bậc cao hơn bốn người thiếp cao nhất và chỉ kém hoàng hậu. Cuối cùng, tháng Mười Một năm 655, hoàng hậu họ Vương bị giáng phong và Võ Tắc Thiên được đưa lên làm hoàng hậu. Sau đó Võ hậu giết Vương hậu cùng người thiếp họ Tiêu một cách tàn bạo - họ bị đập nát chân tay và sau đó tống vào những thùng rượu to để họ còn sống khổ cực thêm ít ngày nữa.

Sau khi Cao Tông bắt đầu bị giảm sút sức khỏe vì đột quỵ, từ tháng 11, 660, bà bắt đầu cai trị Trung Quốc từ phía sau. Thậm chí sau này bà còn có được quyền lực tuyệt đối khi hành quyết Thượng Quan Nghi (上官儀) và Lý Trung (李忠) vào tháng 1 năm 665, và từ đó bà ngồi sau vị hoàng đế lúc ấy đã câm lặng để coi chầu (có lẽ bà ngồi sau một bức màn phía sau ngai vàng) và đưa ra các quyết định. Bà cai trị dưới tên chồng và sau khi ông chết thì dưới tên của các vị vua bù nhìn tiếp theo (con bà Hoàng đế Trung Tông và sau đó là đứa con khác Hoàng đế Duệ Tông), chỉ thực sự chiếm hẳn quyền lực vào 10 năm 690, khi bà tuyên bố lập ra nhà Chu, lấy tên theo tên thái ấp của Cha bà và muốn sánh ngang với triều đại rực rỡ nhà Chu trước đó thời cổ Trung Quốc mà bà coi gia đình họ Võ có nguồn gốc từ đó. Tháng 12 năm 689, mười tháng trước khi bà chính thức lên ngôi, bà bắt triều đình đưa ra chữ mới Chiếu (曌), cùng với 11 chữ khác để trưng ra quyền lực tuyệt đối của bà và chọn chữ mới này làm tên thánh của mình, sau đó nó thành chữ húy khi bà lên ngôi mười tháng sau. Chữ này được tạo ra từ hai chữ có từ trước là chữ "minh" 明 ở bên trên có nghĩa là "ánh sáng" hay "sự sáng suốt"; chữ "không" 空 ở dưới có nghĩa là "bầu trời". Ý nghĩa của nó ám chỉ rằng bà giống như ánh sáng chiếu xuống từ bầu trời. Thậm chí cách đánh vần của chữ mới này cũng giống hệt như chữ "chiếu" trong tiếng Trung Quốc. Khi lên ngôi, bà tuyên bố mình là Hoàng đế Thánh Thần, người phụ nữ đầu tiên nắm chức "hoàng đế" (皇帝) vốn đã được phát minh ra từ 900 năm trước bởi hoàng đế đầu tiên là Tần Thủy Hoàng. Thêm nữa, bà là người phụ nữ duy nhất trong lịch sử 2100 của triều đình Trung Quốc được ngồi lên ngôi rồng, và điều này một lần nữa lại gây sốc cho những nhà nho đạo Khổng.

Lý thuyết chính trị Trung Quốc truyền thống không cho phép một phụ nữ được lên ngôi, Vũ hậu quyết định dẹp yên chống đối và đưa các quan lại trung thành vào triều. Thời cai trị của bà để dấu ấn về sự xảo quyệt tài tình và chuyên quyền hung bạo. Dưới thời cai trị, bà lập ra Cảnh sát mật để đối phó với bất kỳ chống đối nào có thể nổi lên. Bà được hai người sủng thần là anh em Trương Dịch Chi 張易之, và Trương Xương Tông 張昌宗 ủng hộ. Bà lấy lòng dân bằng cách tán thành Phật giáo nhưng trừng trị nghiêm khắc các đối thủ bên trong gia đình hoàng gia và quý tộc. Tháng 10 năm 695, sau nhiều lần thêm chữ, tên của bà được đổi thành Thiên Sách Kim Luân Thánh Thần Hoàng Đế (天冊金輪聖神皇帝), một cái tên đã không bị thay đổi cho tới tận cuối thời cai trị của bà.

Ngày 20 tháng 2 năm 705, lúc này bà đã hơn tám mươi tuổi và ốm yếu, Võ hậu không thể ngăn chặn một cuộc đảo chính giết hại hai anh em họ Trương. Quyền lực của bà cũng kết thúc ngày hôm đó, bà buộc phải lùi bước, hoàng đế Trung Tông được tái lập, nhà Đường lại tiếp tục từ ngày 3 tháng 3 năm 705. Võ hậu chết chín tháng sau đó, có lẽ bà cũng được an ủi rằng cháu trai của mình Võ Tam Tư (武三思), con người em họ và cũng tham vọng và hấp dẫn như bà, đã gắng sức nhằm trở thành người chủ thực sự của triều đình, kiểm soát vị hoàng đế vừa được tái lập thông qua hoàng hậu của ông ta, người mà ông đã có tình ý từ trước.

Mặc dù chỉ tồn tại một thời gian ngắn, theo một số nhà sử học, nhà hậu Chu đã có được một hệ thống bình đẳng xã hội về giới tốt hơn so với nhà Đường tiếp sau nó.

Nhìn vào các sự kiện trong cuộc đời bà theo ám chỉ trong văn chương có thể mang lại nhiều ý nghĩa: một phụ nữ đã vượt qua những giới hạn của mình một cách không thích hợp, thái độ đạo đức giả khi thuyết giáo về lòng trắc ẩn trong khi cùng lúc ấy lại tiến hành mô hình tham nhũng và hành xử một cách xấu xa, và cai trị bằng cách điều khiển từ phía hậu trường.

Một tác giả nổi tiếng người Pháp là Shan Sa, sinh tại Bắc Kinh, đã viết một cuốn tiểu thuyết mang tính tiểu sử tên là "Impératrice" (Hoàng hậu theo tiếng Pháp) dựa trên cuộc đời của Võ hậu.

Bao Tự



Bao Tự (?-771 TCN) là người đẹp Trung Quốc thời nhà Chu. Truyền thuyết kể rằng Chu U Vương mê say nàng nhưng chưa bao giờ thấy nàng cười nên ra lệnh ai làm cho nàng cười sẽ thưởng nghìn lạng vàng.

Để làm nàng cười, nhà vua đã làm mọi cách. Một hôm, Bao Tự cùng vua đi dạo trong vườn thượng uyển thì bỗng có một tiếng động vang lên, và nhà vua thấy được nụ cười đẹp tuyệt của nàng. Sau khi hỏi nàng về điều này, nàng nói do tiếng vải lụa bị xé làm nàng nhớ đến những ngày tháng êm đềm khi sống với cha trên núi.

Sau khi biết được điều này, U vương cho hàng ngàn người ngày đêm xé những mảnh vải lụa đó cho đến khi nàng cười mới thôi. Nhưng ngờ đâu nụ cười vẫn không đến với nàng.

Sau nhiều lần cố gắng nhưng không thành, có một hoạn quan là Quắc công Kỵ Phủ tâu với vua là mình có cách làm cho nàng cười. Quanh đất nhà Chu cai trị vốn xây nhiều tháp dầu để khi có giặc kéo đến thì đốt các cột lửa báo hiệu cho chư hầu đến cứu. Quắc Công khuyên Chu U vương đốt lửa cho chư hầu đến để cho Bao Tự cười. U vương làm theo.

Quân chư hầu mấy nước lân cận trông thấy các cột lửa cháy, ngỡ là có giặc bèn hớt hải mang quân đến cứu. Đến kinh thành, thấy mọi người vẫn đi lại bình thường, không có giặc giã gì cả. Các chư hầu ngơ ngác nhìn nhau. Bao Tự ở trên đài trông thấy bật tiếng cười lớn. U vương vô cùng hoan hỉ vì làm được cho nàng cười. Xong U vương lệnh cho các trấn chư hầu rút quân về vì không có giặc.

Đến một thời gian sau, vua Chu lại sai đốt lửa lần nữa và các chư hầu lại bị lừa để Bao Tự có được tiếng cười.

U vương say mê Bao Tự, xa lánh hoàng hậu họ Thân. Bao Tự sinh được một hoàng tử, U vương rất yêu quý, định lập làm thái tử và muốn phế truất thái tử Nghi Cữu. Cha Thân hậu bèn liên hệ với quân Khuyển Nhung bên ngoài kéo vào đánh úp Cảo Kinh. U vương vội cho đốt lửa hiệu triệu chư hầu tới cứu, nhưng các chư hầu bị lừa vài lần nên tưởng vua đùa, không tới nữa. U vương mang Bao Tự và con nhỏ bỏ chạy, bị quân Khuyển Nhung đuổi theo giết chết. Riêng Bao Tự bị vua Khuyển Nhung bắt về cung để mua vui.

Quân Khuyển Nhung cướp phá giết người kinh thành. Thân Hầu ân hận mang họa cho dân Cảo Kinh bèn viết thư triệu các nước chư hầu Tấn, Tần, Trịnh đến đánh quân Khuyển Nhung. Quân ba nước kéo đến đánh tan quân Nhung. Vua Nhung bỏ chạy. Bao Tự thấy quân các nước kéo vào cung bèn thắt cổ tự vẫn.

Con trưởng U vương là Nghi Cữu được lập lên ngôi, tức là Chu Bình vương.

Nhà thơ Lý Bạch có câu:

Mỹ nhân nhất tiếu hoán thiên kim

Tạm dịch:

Người đẹp nở một nụ cười đáng đổi lấy nghìn lạng vàng

Ngu Cơ



Ngu Cơ thường xuyên đi cùng Hạng Vũ ra chiến trận, sát cánh cùng Sở Bá vương trong suốt nhiều năm chinh chiến. Đoạn tiễn biệt giữa hai người trong thành Cai Hạ là một đoạn bi tráng rất nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc được Sử ký của Tư Mã Thiên nhắc tới.

Hạng Vũ và Lưu Bang vốn đã giảng hoà ở Hồng Câu để chia đôi thiên hạ. Nhưng sau đó Lưu Bang bội ước đánh úp Hạng vương khiến Hạng vương phải chạy vào thành Cai Hạ.

Hạng vương đóng quân ở trong thành Cai Hạ, binh ít, lương hết. Quân Hán và quân chư hầu bổ vây mấy vòng. Đang đêm, Hạng vương thức dậy nghe quân Hán ở bốn mặt đều hát giọng Sở, Hạng vương kinh hoàng, nói:

Hán đã lấy được Sở rồi sao? Sao mà người Sở lại đông như thế?
Đêm hôm đó Hạng vương uống rượu trong trướng cùng Ngu Cơ. Hạng vương đau đớn cảm khái làm bài thơ, được đời sau gọi là bài "Cai Hạ ca":

Lực bạt sơn hề, khí cái thế,
Thời bất lợi hề, Chuy bất thệ
Truy bất thệ hề khả nại hà,
Ngu hề, Ngu hề nại nhược hà.

Dịch:

Sức nhổ núi, khí trùm đời,
Ngựa Chuy chùn lại bởi thời không may!
Ngựa sao chùn lại thế này?
Nàng Ngu, biết tính sao đây hỡi nàng?

Hạng vương ca mấy lần, Ngu Cơ múa kiếm, hát hòa theo, lời ca rằng:

Hán binh dĩ lược địa,
Tứ diện Sở ca thanh.
Trượng phu ý khí tận,
Tiện thiếp hà liêu sinh.

Dịch:

Quân Hán lấy hết đất,
Khúc Sở vang bốn bề.
Trượng phu chí lớn cạn,
Tiện thiếp sống làm chi.

Rồi Ngu Cơ lấy gươm tự vẫn để "tránh làm vướng bận" Hạng Vũ. Hạng Vương thấy Ngu Cơ chết, khóc chảy nước mắt, tả hữu đều khóc, không ai có thể ngẩng lên nhìn.

Tương truyền nơi máu bà đổ xuống mọc lên một thứ cỏ hễ có rót rượu gần bên thì cỏ múa lả lướt như Ngu Cơ trong tiệc rượu của Hạng Vũ. Người ta gọi cỏ ấy là "Ngu mỹ nhân thảo". Lại có thuyết cho rằng hương hồn bà không tan, hóa thành 2 khóm cỏ trên mộ, ngày đêm cứ quấn quít vào nhau, người ta gọi là Cỏ ngu.


Trương Lệ Hoa



Trương Lệ Hoa xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo khó ở Giang Nam. Tuy là con nhà nông, phải phụ cha mẹ làm những công việc đồng áng nặng nhọc nhưng Lệ Hoa đang ở độ tuổi đôi mươi có nét đẹp khác lạ: "da trắng như tuyết, mắt đen láy, thân hình toát lên vẻ thanh tú", những vẻ đẹp theo nàng từ lúc mới sinh nên tên Lệ Hoa cũng do cha mẹ đặt từ các đặc điểm trên.

Người con trai của Trần Văn Đế là Trần Thúc Bảo cũng mới gần hai mươi tuổi khi ấy được phong là Trần Nhu Tuyên đế. Trần Nhu trong một dịp ra ngoài cung dạo chơi đã gặp và phải lòng Trương Lệ Hoa khi thấy nàng đang bán hoa sen ngoài phố. Trần Nhu đã đưa một số tiền lớn cho cha mẹ Lệ Hoa để mua nàng về làm thiếp.

Khi vua Trần Văn Đế băng hà thì Trần Nhu lên làm hoàng đế, hiệu là Chí Đức, nhưng gọi là Trần Hậu Chủ. Ngay khi nắm một quyền lực lớn nhất trong tay, Hậu Chủ đã cho rước Trương Lệ Hoa về cung và suốt ngày đắm đuối bên nàng, bỏ mặc Thẩm Hoàng Hậu và những lời can ngăn của quần thần "Lệ Hoa chỉ là con của tầng lớp dân dã".


Vì xuất thân từ tầng lớp nghèo khó trong xã hội nên khi vào cung, Lệ Hoa hết sức choáng ngợp trước cảnh vàng son nhung lụa. Mặc dù được vua chu cấp đầy đủ nhưng ở ngôi vị quý phi, nàng vẫn chưa thỏa mãn. Lệ Hoa sai tâm phúc bí mật liên lạc với các tầng lớp quý tộc bên ngoài để thực hiện việc "mua quan bán chức", hễ ai muốn có chức tước gì trong triều chỉ cần đưa cho nàng một số vàng bạc nào đó tương xứng với giá trị của chức ấy thì sẽ toại nguyện nhờ tài nâng đỡ và mồm miệng của Lệ Hoa thuyết phục nhà vua.

Thái tử Trần Dân bất mãn trước việc hoàng hậu Thẩm mẹ mình không được sủng ái cùng với việc Trương Quý Phi công khai ăn hối lộ nên tỏ ý chống đối, Lệ Hoa cầu cứu với Hậu Chủ và từ đó vua càng phớt lờ những lời can gián của Thái Tử cũng như quần thần rồi ngày càng ăn chơi sa đọa cùng Trương mỹ nhân.


Năm 588, nhà Tùy dẫn quân tấn công Nam triều, Tấn Vương Dương Quảng bao vây kinh đô Nam Trần. Hậu Chủ bước đường cùng phải dẫn Trương Lệ Hoa và Khổng Quý Tân nhảy xuống một cái giếng cạn ở vườn Ngự Uyển để trốn quân Tùy. Cuối cùng bị bắt gọn, Dương Quảng cũng suýt bị mỹ nhân hớp hồn, toan đưa nàng về nhưng sau khi nghe quan quân can ngăn đã hạ lệnh xử tử Trương Lệ Hoa, còn Hậu Chủ và hoàng tử Thâm bị bắt làm tù nhân. Trương Lệ Hoa chết rất trẻ, chỉ vừa sắp bước qua tuổi 30

Trần Viên Viên



Khởi đầu của Trần Viên Viên khá giống mỹ nhân Trương Lệ Hoa đời Nam Bắc triều, Trần Viên Viên cũng xuất thân từ một gia đình lao động nghèo hèn tại thôn Thái Nguyên. Viên Viên lẽ ra mang họ Hình, nhưng là con nuôi của gia đình họ Trần nên lấy họ cha mẹ nuôi và trở thành dưỡng nữ của họ, rồi sau đó đến Tô Châu làm ca kỹ. Viên Viên vốn có sắc đẹp hơn người, xinh đẹp hơn cả hai cô công chúa Trường Bình và công chúa Chiêu Ân con vua Sùng Trinh lúc bấy giờ, thông thạo đàn hát nên có rất nhiều nam nhân đến xem nàng biểu diễn. Trong số đó có Điền Văn là một phú hộ có thế lực rất lớn do con của ông ta là quý phi được Sùng Trinh sủng ái. Điền Văn trong một dịp tình cờ thưởng thức tài nghệ của Viên Viên và bỏ ra một số tiền lớn để mua nàng về.

Trần Viên Viên từ khi gặp được Ngô Tam Quế, một danh tướng của Sùng Trinh tại phủ của Điền Văn thì cả hai đã phải lòng nhau. Có thể nói nguyên nhân khiến Ngô Tam Quế phản quốc khiến cho sụp đổ cả một vương triều Đại Minh phần lớn đều do Trần Viên Viên mà ra. Sự chuyển biến quan trọng đó là việc Trần Viên Viên bị Lý Tự Thành bắt giữ khiến Ngô Tam Quế sau nhiều lần suy tính, cuối cùng thỏa hiệp với Đa Nhĩ Cổn mở đường cho quân Thanh vào Sơn Hải quan thẳng tiến đến Bắc Kinh. Toàn bộ sự việc như sau:

Ngô Tam Quế vốn yêu thích Trần Viên Viên khi nàng đang là ái thiếp của Điền Văn, nhân cơ hội Điền Văn lo sợ nghĩa quân Lý Tự Thành vây đánh cướp bóc gia trang của mình nên ông hứa sẽ bảo vệ Điền Văn, của cải và gia quyến được an toàn, đổi lại ông muốn Viên Viên thuộc về mình.
Khi đã có Trần Viên Viên, Ngô Tam Quế lại phải tiếp nhận thánh chỉ dẫn quân ra quan ải chặn đường quân Thanh. Lý Tự Thành thừa cơ hội bắt giữ gia quyến của Ngô Tam Quế và luôn cả nàng Viên Viên mang đi. Trong khi đó vua Sùng Trinh chỉ còn biết cách dối gạt ông và bịa chuyện Viên Viên đang dưỡng bệnh tại hậu viên tránh tiếp xúc người ngoài.
Lý Tự Thành khi ấy đã tự phong mình là Đại Thuận Đế, tiến quân đến Sơn Hải quan và dùng gia quyến của Ngô Tam Quế làm điều kiện buộc ông quy hàng. Tuy nhiên, sau khi lật đổ nhà Minh, Lý Tự Thành sau đó lại cố chấp không thả người còn giết hết cả nhà Ngô Tam Quế gồm cha mẹ và anh chị em hơn ba mươi người (nhưng trong đó không có Trần Viên Viên). Việc làm này khiến Ngô Tam Quế căm giận và về quy hàng nhà Thanh.
Liên minh Ngô Tam Quế - Đa Nhĩ Cổn nhà Thanh tổ chức nhiều đợt tấn công, đẩy lùi nghĩa quân Lý Tự Thành về Cửu Cung Sơn, Lý Tự Thành trúng tên bị thương nặng và qua đời.

Khi nhà Thanh chiếm được Trung Nguyên thì Trần Viên Viên gửi mật thư cho Ngô Tam Quế để ông đến đón nàng tại một thôn làng xa xôi nơi nàng lánh nạn. Tiếc thay hạnh phúc không được bao lâu thì Ngô Tam Quế rắp tâm làm phản mặc cho Viên Viên hết lời can ngăn. Ông lui quân về Hồ Nam, nơi mình được phong vương rồi chiêu binh mãi mã, tự đế lấy hiệu Chiêu Võ. Viên Viên quá bất mãn xuất gia đi tu và chết trong lúc Ngô Tam Quế lập quốc xưng vua. Lúc bấy giờ Khang Hi đã lên ngôi, thông minh sáng suốt, nhờ nhiều mưu thần người Mãn và các quan người Hán đã qui thuận tiếp sức, một mặt vừa lo đối phó với gian thần Ngao Bái, mặt khác tăng cường nhiều trận đánh khiến quân Ngô Tam Quế kinh hoàng. Quân Thanh vây kín thành Nhạc Châu, Ngô Tam Quế khi ấy thất thế chỉ biết rượu chè say sưa rồi một hôm trúng gió qua đời, nhà Thanh đại thắng.

Triệu Phi Yến



Triệu Phi Yến tên thật là Triệu Nghi Chủ (do có tài múa rất hay, điệu múa nhẹ nhàng uyển chuyển như bay như lượn tựa chim yến nên gọi là Phi Yến), là một trong hai đại mỹ nhân của triều đại nhà Hán bên cạnh người đẹp Vương Chiêu Quân. Nàng là người có liên quan đến một giả thuyết về xuất xứ của tục bó chân.

Dưới đời Hán Thành Đế, Triệu Phi Yến được phát hiện ra trong một dịp vua do muốn tìm mỹ nhân trong thiên hạ, tình cờ ngự giá sang phủ của công chúa Dương A. Vua sửng sốt trước vẻ đẹp kiều diễm của bà vì lúc ấy Phi Yến chỉ vừa mười tám tuổi, giọng nói thánh thót nhẹ nhàng khiến vua say đắm

Trái ngược với đại mỹ nhân Vương Chiêu Quân là một cô gái hy sinh vì nước để giữ gìn sự trinh trắng của mình, Phi Yến trước khi về với Hán Thành Đế đã từng là một người phụ nữ lẳng lơ, sau này người ta rằng do bà nhiều lần ăn nằm với tình lang của mình rồi mới về với vua, nên trong đêm ân ái đầu tiên với Hán Thành Đế, Triệu Phi Yến đã dùng thủ đoạn "lạc hồng" tức là để nhiều dấu máu tươi trên gối khiến vua ngỡ Phi Yến còn giữ được "ngọc tiết" nên càng sủng ái hơn (thật ra đó chỉ là một loại nước màu đỏ giống như máu). Triệu Phi Yến nhanh ***ng chiếm được chiếc ghế quyền lực Hoàng Hậu không lâu sau đó.


Phi Yến do được Dương A công chúa đưa vào cung với mục đích lấy lòng vua - củng cố địa vị của mình. Nhưng qua một thời gian chung sống với vua do không có con nên bà đã cùng với Dương A tìm cách đưa em gái Phi Yến là Hợp Đức vào cung tiến vua, hy vọng Hợp Đức sẽ mang long thai và Phi Yến nhanh ***ng có được quyền lực.


Hậu cung dưới đời vua Hán Thành Đế từ khi có mặt của chị em họ Triệu thì trở nên rối ren, sóng gió, tranh giành đẫm máu. Triệu Phi Yến đơn thuần chỉ là một cô gái đẹp, muốn lấy lòng vua và ham mê quyền lực trong khi người em gái Triệu Hợp Đức về nhan sắc không hề thua chị, nhưng cực kỳ mưu mô và độc ác. Hai chị em họ đã:

Tìm mọi cách thuyết phục vua để thăng chức cho Phi Yến làm Triệu Chiêu Nghi, còn Hợp Đức làm Triệu Tiệp Dư.
Thừa lúc Hứa Hoàng Hậu bí mật cúng vái để đổ tội cho Hoàng Hậu dùng tà thuật hại vua và kết quả là Hoàng Hậu bị phế ngôi, giam lỏng ở lãnh cung.
Giở trò hù dọa khiến Ban Tiệp Dư, cũng là một tuyệt sắc mỹ nhân trong cung, sợ bị hại như Hoàng Hậu nên phải trốn đi.
Khi đã lên ngôi hoàng hậu, Phi Yến nghe lời Hợp Đức giết hại luôn một mỹ nhân họ Tào đang mang long thai và giết luôn số cung nữ hầu cận mỹ nhân đó.
Sự việc sau cùng mà Hán Thành Đế phát hiện ra thủ đoạn xấu xa của chị em Phi Yến nhưng cũng đã muộn khi ông lén lút chăn gối với một mỹ nhân khác mang họ Hứa và hạ sinh một hoàng tử trắng trẻo, tuy nhiên do Hợp Đức nài nỉ quá nên vua đã mang thái tử cho Hợp Đức ẵm rồi hoàng tử nhỏ chết ngay sau khi hồi cung. Người ta cho rằng Hợp Đức đã tẩm độc trong đầu ngón tay và cho hoàng tử bú nút ngón tay ấy.

Hán Thành Đế bản tính nhu nhược, không dám trị tội hai chị em mỹ nhân mà chỉ tìm cách đề phòng để rồi sau đó lâm bệnh và băng hà. Chị em Triệu Phi Yến không còn chỗ đứng, thế lực của Vương Mãn, Vương Thái Hậu ngày càng mạnh. Nếu như Vương Mãn trước kia từng thừa dịp Phi Yến - Hợp Đức tác oai tác quái trong hậu cung khiến cho nhà Hán ngày càng suy yếu thì nay đến lúc ra tay trừ khử hai vị mỹ nhân gieo tai họa này. Trước tiên Triệu Hợp Đức bị Vương Thái Hậu phanh phui nhiều tội trạng như hại hoàng hậu, giết hại người vô tội, giết tiểu hoàng tử. Hợp Đức bị giam lỏng ở lãnh cung một thời gian rồi tự vẫn. Triệu Phi Yến sau đó cũng bị bức phải tự sát như em gái mình

Tả Phấn



Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm nghe tiếng em gái thi nhân Tả Tư là Tả Phấn có tài năng hơn người nên lập tức tuyển vào cung, Tả Phấn vì tài đức siêu quần nên ngày ngày được đế vương cùng quần thần tán thưởng, được phong làm người coi giữ hậu cung. Hiềm nổi ngư sắc hoang đường Tư Mã Viêm là một trong số các đế vương vô sỉ vô vi của lịch sử, Tả Phấn được phong là Quý Phi, bất quá là do Tư Mã Viêm vì cái hư danh trọng hiền đãi sĩ, trong “Tấn Thư” gọi Tả Phấn là “Tư lậu thể luy, thường cư bạc thất” (thân thể gầy yếu, ở nhà đạm bạc). “Trác Mộc Thi” là tác phẩm mà trong đó, Tả Phấn tả lại cuộc sống đạm bạc của mình.

Lý Thanh Chiếu



Lý Thanh Chiếu, hiệu “Dịch An Cư Sĩ”, người Sơn Đông - Lịch Thành thời Tống (nay là Sơn Đông - Tế Nam). Cha là Lý Cách Phi, làm quan đến Lễ Bộ Viên Ngoại Lang, một người học vấn uyên bác. Mẹ là Vương Thị, cũng là một người biết thơ văn. Lý Thanh Chiếu được cha dạy ngâm thơ, viết từ và tản văn từ nhỏ. 18 tuổi được gả cho Triệu Minh Thành, cũng là một người có học vấn. 2 vợ chồng cùng sinh hoạt, cùng học tập, cuộc sống rất tình thú. Khi quân Kim diệt Tống, vợ chồng Lý Thanh Chiếu chạy xuống phương nam lánh nạn. Năm 1129, Triệu Minh Thành được phái đến Hồ Châu nhậm chức, đi đến Kiến Khang thì qua đời, Lý Thanh Chiếu phải bôn ba đến Chiết Giang nương nhờ em trai là Lý Kháng. Về sau cùng với Lý Kháng phiêu bạc qua Việt Châu, Đài Châu, Hàng Châu và Kim Hoa.

Sinh đang tác nhân kiệt, tử diệc vi quỷ hùng.
Chí kim tư Hạng Vũ, bất khẳng quá Giang Đông

Lý Sư Sư



Tư ái của Tống Huy Tông .

Xinh Đẹp,Giỏi Đàn Hát [ Vốn là gái lầu xanh]
Rất nổi tiếng trong tác phẩm Thủy Hử. Việc Lương Sơn BẠc quy thuận Triều Tống có một phần đóng góp của người con gái này.

SAu Khi Chinh Phạt Giặc Phương LẠC ở phương NAm xong

Lý Sư Sư đã cùng vơi Yến Thanh[1 trong 108 vị anh hùng-đẹp trai tuần tú -và có săm rất nhiều hoa mẫu đơn trên lưng^^]phiêu bạt giang hồ ===> mất tích từ đây ^^

Liễu Như




Tài nữ nổi tiếng thời Đường, đứng đầu Tần Hoài Bát Diễm, từng chiết chiêu võ công với 2 thi nhân nổi tiếng đương thời là Trần Tử Long, Tiền Khiêm Ích ; làm rạng danh quần thư, không nhượng phe tu mi.

Quách Ái



Vì sự ích kỷ của các đời đế vương, quảng thúc mỹ nữ, nhốt trong hậu cung đã làm hại thanh xuân, hạnh phúc và tính mệnh của biết bao thiếu nữ. Nếu có kiếp sau, chắc chắn họ sẽ hy vọng được gả vào một nhà bình thường, trên còn phụ mẫu, dưới có nhi nữ, họ cũng cam tâm tình nguyện đắm chìm trong ngọn lửa yêu thương của thê chức mẫu chức trên nhân gian, tháng năm dần qua cho đến một ngày kia họ lạc hạ hoàng tuyền, tức là kiếp này đã dứt.

Chu Thục Chân



Nữ từ nhân nổi tiếng thời Đường, hiệu xưng U Thê Cư Sĩ, được biết là một tài nữ người ở Tiền Đường thời Tống, thi từ đều giỏi, đương thời chỉ có nàng mới xứng tề danh với Lý Thanh Chiếu. Tác phẩm tiêu biểu có “Đoạn Trường Tập” và “Đoạn Trường Từ” được lưu truyền, nổi tiếng nhất là “Điệp Luyến Hoa”.

Chu Thục Chân có cuộc đời khá u sầu. Nguyên nàng có một ý trung nhân lý tưởng, cũng là người tài hoa mà nàng tự quen biết. Nhưng phụ mẫu không cho phép nàng kết hôn với ý trung nhân của mình, mà gả nàng cho 1 thương nhân. Chồng nàng là người chỉ biết kiếm tiền, đối với thi từ và tranh vẽ của nàng đều không có hứng thú, vì vậy mà cuộc sống của nàng lúc nào cũng đầy u sầu và tẻ nhạt.

Thượng Quan Uyển Nhi



Cháu gái Thượng Quan Nghị, hiệu xưng là Cân Quốc Thủ Tướng đầu tiên. Thời Đường Cao Tông, cháu gái tể tướng Thượng Quan Nghị là Thượng Quan Uyển Nhi, thông thuộc thi thư, không những biết ngâm thơ viết văn mà còn hiểu biết chuyện xưa nay, thông minh mẫn tiệp dị thường.

Chân Hoàng Hậu



Sau khi Tào Phi xưng đế, sủng hạnh Quách hoàng hậu, Quách hậu cậy đắc sủng nên gièm pha Chân hoàng hậu, từ đó Chân hoàn hậu thất sủng. Sau khi bị vua bỏ lơ không nói đến, từ “Đường Thượng Hành” có thể đọc thấy được lòng tương tư cực chí của một người vợ đối với trượng phu, một lòng thâm tình vô hối. Sự chờ đợi của Chân hoàng hậu đáng thương cuối cùng chỉ là một tờ giấy chết của Tào Phi. Thậm chí sau khi chết, thi thể phải lấy tóc che mặt, lấy trấu lấp miệng, chịu nỗi khổ vũ nhục và lăng ngược.

Đường Thượng Hành

Bồ sinh ngã trì trung, kỳ diệp hà li li.
Bàng năng hành nhân nghĩa, mạc nhược tiếp tự tri.
Chúng khẩu thước hoàng kim, sử quân sinh biệt li.
Niệm quân khứ ngã thời, độc sầu thường khổ bi.
Tưởng kiến quân nhan sắc, cảm kết thương tâm ti.
Niệm quân thường khổ bi, dạ dạ bất năng mị.

Hoa Nhị Phu Nhân



Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn từng ngưỡng mộ tài danh của Hoa Nhị Phu Nhân. Hoa Nhị Phu Nhân là Phí Quý Phi của Hậu Thục Hậu Chủ - Mạnh Xưởng, xuất thân là 1 ca kỹ ở Thanh Thành (nay ở phía Đông Nam thành phố Giang Yển). Tương truyền “Hoa Nhị Phu Nhân Cung Từ” có hơn 100 biến, trong đó thật ra chỉ có hơn 90 biến. Khi Tống diệt Hậu Thục, chỉ dùng có 1 vạn quân, 14 vạn quân Hậu Thục không chiến mà hàng, Hoa Nhị Phu Nhân theo Mạnh Xưởng lưu vong về phương bắc, đêm nghỉ ở Gia Minh dịch trạm, cảm hoài nỗi buồn nước mất nhà tan, đề lên vách quán bài “Thái Tang Tử”. Nhưng vì quân kỵ thôi thúc nên bị mất hết một nửa, cứ viết được 1 chữ lại rơi lệ.

Tiết Đào



Nữ thi nhân thời Đường, người gọi là Nữ Hiệu Thư, từng xướng họa cùng thi nhân nổi tiếng đương thời Nguyên Trẩn, thực lực không thua kém. Tác phẩm tiêu biểu : Ngô Đồng Thi (làm khi mới 8 tuổi)

Đình trừ nhất cổ đồng,
Tủng cán nhập vân trung,
Chi nghênh nam bắc điểu,
Diệp tống vãng lai phong.

Tiết Đào (770-832), tự Hồng Độ. Cha Tiết Vân là một viên tiểu lại ở kinh đô, sau loạn An Sử dời đến ở Thành Đô, Tiết Đào sinh vào năm thứ 3 Đại Lịch thời Đường Đại Tông. Lúc còn nhỏ đã thể hiện rõ thiên phú hơn người, 8 tuổi đã có thể làm thơ, cha từng ra đề “Vịnh Ngô Đồng”, ngâm được 2 câu “Đình trừ nhất cổ đồng, tủng cán nhập vân trung”; Tiết Đào ứng thanh đối ngay : “Chi nghênh nam bắc điểu, diệp tống vãng lai phong”. Câu đối của Tiết Đào như dự đoán trước mệnh vận cả đời của nàng. Lúc 14 tuổi, Tiết Vân qua đời, Tiết Đào cùng mẹ là Bùi Thị nương tựa nhau mà sống. Vì sinh kế, Tiết Đào bằng dung mạo và tài năng hơn người tinh thi văn, thông âm luật của mình bắt đầu đến các nơi ăn chơi hoan lạc, rót rượu, phú thi, đàn xướng hầu khách nên bị gọi là “Thi Kỹ”.

Thời Đường Đức Tông, triều đình mời Trung thư lệnh Vĩ Cao làm Tiết độ sứ Kiếm Nam, thống lược Tây Nam, Vĩ Cao là một quan viên nho nhã cũng có tài thơ văn, ông nghe nói về tài năng xuất chúng của Tiết Đào mà còn là hậu nhân của quan chức triều đình, liền phá lệ mời nàng dùng thân phận nhạc kỹ đến Soái Phủ đãi yến phú thi, Tiết Đào trở thành Doanh Kỹ nổi tiếng ở Thành Đô (Nhạc kỹ chính thường được mời đến các cuộc vui chơi của võ quan trấn thủ các nơi). Sau 1 năm, Vĩ Cao mến tài Tiết Đào, chuẩn bị tấu xin triều đình để Tiết Đào đảm nhiệm quan chức Hiệu Thư Lang, tuy chưa kịp thực hiện nhưng danh hiệu “Nữ Hiệu Thư” đã không kính mà đến, đồng thời Tiết Đào cũng được gọi là “Phụ Mi Tài Tử”. Về sau, Vĩ Cao vì trấn thủ biên cương có công nên được phong làm Nam Khang Quận Vương, rời khỏi Thành Đô. Lý Đức Dụ tiếp nhiệm Kiếm Nam Tiết Độ Sứ cũng rất ngưỡng mộ tài năng của Tiết Đào. Trong suốt cuộc đời của Tiết Đào, Kiếm Nam Tiết Độ Sứ tổng cộng có 11 người thay phiên đảm nhiệm, người nào cũng vô cùng thanh lãi và kính trọng nàng, địa vị của nàng đã vượt xa một tuyệt sắc hồng kỹ tầm thường

Ban Tiệp Dư



Ban Tiệp Dư là con nhà danh môn, còn trẻ đã học thành tài, thời Hán Thành Đế được lập làm Tiệp Dư. Chị em Triệu Phi Yến sau khi đắc sủng, ganh ghét tài năng phẩm hạnh của Ban Tiệp Dư, Ban Tiệp Dư ngày đêm lo sợ nên xin theo hầu thái hậu ở cung Trường Tín. Có thể bài “Đoàn Phiến Thi” được sáng tác tại cung Trường Tín, bài thơ nhỏ này dùng từ thái mới mẻ, tình như ai oán, biểu hiện thật ủy uyển hàm súc, có một loại khí độ oán mà không giận

Phan Kim Liên



Phan Kim Liên là nhân vật trong tiểu thuyết Thủy Hử của nhà văn Thi Nại Am, và cũng là nhân vật trong truyện Kim Bình Mai của Tiếu Tiếu Sinh. Phan Kim Liên nguyên là hầu gái trong nhà một đại gia, do không chịu làm thiếp cho tài chủ già nên bị bức phải lấy Võ Đại Lang, anh Võ Tòng, một người vừa lùn vừa xấu xí. Phan Kim Liên vốn tính lẳng lơ nên rất thất vọng. Về sau, Võ Tòng gặp lại Võ Đại Lang, Phan Kim Liên thấy Võ Tòng là anh hùng cái thế thì ra sức quyến rũ nhưng Võ Tòng không chút động lòng. Nhân lúc Võ Tòng đi Đông Kinh, do người láng giềng là Vương Bà dắt mối, Phan Kim Liên quen với Tây Môn Khánh, một tên tài chủ. Khi hai người gặp nhau ở nhà Vương Bà thì bị Võ Đại Lang phát hiện. Võ Đại Lang bị Tây Môn Khánh đánh đến ngất đi. Vì muốn gian díu lâu dài với Tây Môn Khánh nên Phan Kim Liên với sự giúp đỡ của Vương Bà bỏ thạch tín vào bát canh của Võ Đại Lang để giết chàng.

Võ Tòng trở về, biết chuyện lập tức mời hàng xóm đến nhà. Chàng lôi Vương Bà đến trước bàn thờ anh rồi gọi Phan Kim Liên ra. Phan Kim Liên xin tha tội nhưng Võ Tòng đã chém chết ả ngay tại chỗ rồi đi giết Tây Môn Khánh. Phan Kim Liên về sau trở thành nhân vật *** phụ điển hình trong văn học Trung Hoa.

Phan Kim Liên là nhân vật nữ quyến rũ nhất trong tác phẩm Thuỷ Hử. Nàng rất đẹp, thể hiện rất đúng nữ tính. Tiếc là kết cục đã bị tên Võ Tòng tiêu diệt. "Xót thương cho phận liễu bồ, vì đâu nên nỗi như vầy hỡi ai"

Ðổng Ngạc Phi



Người thân yêu nhất của Thuận Trị Ðế, cái chết của bà đến nay vẫn là một kì án của triều Đại Thanh ko có lời giải đáp. Sau khi bà mất THuận Trị bỏ đi tu, để lại đất nước cho cậu bé Khang Hi và cũng mở ra một trong những trang sử huy hoàng nhất của Đại Thanh triều

Hầu Phu Nhân



Tùy Dạng Ðế Dương Quảng tại vị, quảng cáo cao lâu, bắt hàng ngàn thiên hạ mỹ nữ nhốt vào trong ðó, Hầu Phu Nhân chính là 1 trong số hàng ngàn cung nữ đó mà suốt cả cuộc đời cũng chưa hề gặp được Tùy Dạng Ðế, cuối cùng tự ải mà chết.

Tạ Đạo Uẩn



Cháu gái Tạ An, người xuất hiện trong điển “Vịnh Nhứ Tài”. Tác phẩm tiêu biểu :

“Đăng Sơn”

Nga nga đông nhạc cao,
Tú cực xung thanh thiên.
Nham trung gian hư vũ,
Tịch mịch u dĩ huyền.
Phi công phục khí tượng,
Vân cấu thành tự nhiên.
Khí tượng nhĩ hà nhiên ?
Toại lệnh ngã lâu thiên.
Thệ tướng trạch tư vũ,
Khả dĩ tận thiên niên.

Sưu tầm